Tuesday, June 15, 2010

Vũ hội hóa trang - Chương 6

Triển lãm Biennale diễn ra tại một khu chồng chéo các gian trưng bày mà ở đó khách tham quan có thể bắt gặp một dãy các phòng trưng bày với mặt ngoài là màn hình trình chiếu chạy dài, tạo thành những bức tường lớn, cho tới khi gặp nhau tại một góc xa tít tắp nào đó. Trên màn hình là những hình ảnh thay đổi liên tục: những khuân mặt trông như những quả bóng làm bằng nhựa vinyl hết giãn ra rồi lại co vào, lúc rền rĩ đau khổ lúc lại cười khúc khích, những bông hoa nở rồi tàn, và cả cảnh tượng di chuyển hối hả trên đường phố Tokyo, xẹt qua như những cái bóng mờ ảo, mang theo cảm giác tù túng và khiếp sợ.


Lúc mới đặt chân tới Venice, Schuyler như được hun đắp một ngọn lửa nhiệt tình, hoang sơ nhưng tràn đầy niềm háo hức. Cô chưa từng chùn bước trong suốt cuộc tìm kiếm, trái lại cô luôn tỏ ra bền bỉ và kiên định. Nhưng lòng nhiệt tình của cô giảm sút nghiêm trọng khi sự thật dần phơi bày trước mắt cô. Việc tìm kiếm ông ngoại tại Venice này không hề dễ dàng như Schuyler tưởng tượng lúc ban đầu. Tất cả những gì cô có chỉ là một cái tên. Cô thậm chí còn không biết ông ngoại trông như thế nào. Ông trông già hay trẻ? Theo như bà cô nói, cách đây nhiều năm, ông Lawrence đã bị trục xuất khỏi Ủy Ban và phải đi lánh nạn nơi xứ người. Vậy có khi nào chừng ấy năm sống cô độc đã khiến ông điên loạn và mất trí? Hay tệ hơn nữa, lỡ như ông không còn trên cõi đời này? Lỡ như ông đã bị Máu Bạc thủ tiêu mất rồi? Nhưng sau khi tận mắt nhìn thấy căn phòng của vị Giáo sư ấy, cô lại tràn ngập niềm hi vọng như lúc ban đầu chân ướt chân ráo đến đây. Ông ở đây. Ông còn sống. Schuyler có thể cảm nhận được điều ấy.

Schuyler lướt từ phòng trưng bày này sang phòng trưng bày khác, chăm chú tìm kiếm trong bóng tối một dấu hiệu, một đầu mối dẫn cô tới chỗ ông ngoại. Theo Schuyler thấy, các tác phẩm nghệ thuật được trưng bày nơi đây có phần nào đó rất khiêu khích, thậm chí có chút tự phụ lộ ra đằng sau sự cầu kỳ, phô trương. Hình ảnh một người đàn bà cứ liên tục tưới cây thì có ý nghĩa gì? Mà chuyện đó có quan trọng với cô không nhỉ? Schuyler nhìn lên phông chiếu và chợt nhận cô cũng đang rơi vào tình huống giống người đàn bà kia: cả hai đều bị mắc kẹt trong một nhiệm vụ chẳng khác nào “thử thách của Sisyphus” .

Oliver đã vượt lên phía trước Schuyler mấy gian rồi. Cậu dành chừng mười giây để “nghiên cứu” mỗi tác phẩm mà cậu lướt qua. Theo như cậu nói, đó là tất cả thời gian cậu cần để tìm hiểu nghệ thuật. Họ hẹn sẽ gọi lại cho nhau nếu tìm được thứ gì đó, mặc dù Oliver đã chỉ ra rằng cả hai người bọn họ đều không biết mặt mũi Lawrence Van Alen trông ra làm sao. Khác với Schuyler, Oliver không thực sự tin rằng chuyến viếng thăm Biennale sẽ mang lại kết quả khởi sắc, chỉ là cậu không dám nói ra điều đó mà thôi.

Schuyler dừng chân tại lối vào của một căn phòng ngập trong làn khói đỏ thẫm. Một tia sáng cắt qua toàn bộ không gian căn phòng, chiếu sáng một đường xích đạo màu cam tươi rói, đơn độc giữa sự bành trướng của ánh sáng đỏ. Schuyler tiến vào trong phòng và dừng lại giây lát, trầm trồ thán phục tác phẩm.


- Đó là tác phẩm của Olafur Eliasson . - Người thanh niên đứng cạnh cô giải thích. – Trông thật đẹp mắt phải không? Tuy nhiên vẫn có thể nhận ra ảnh hưởng của Flavin .


Schuyler gật đầu đồng tình. Ở trường cô đã từng được học về Dan Flavin trong giờ Mỹ thuật, thảo nào cô cứ thấy bố cục của tác phẩm này quen quen.

- Nhưng đâu phải tất cả các tác phẩm sử dụng đèn huỳnh quang đều chịu ảnh hưởng của Flavin đâu? – Cô hỏi lại hơi có phần xấc xược.


Một bầu không khí im lặng đến mức kỳ lạ diễn ra khiến Schuyler định quay người bỏ đi; đúng lúc đó thì có tiếng nói từ phía chàng trai nọ.

- Cô nói thử xem, tại sao cô lại đến nước Ý này? – Anh chàng người Ý đẹp trai hỏi cô bằng một giọng Anh hoàn hảo. – Trông cô rõ ràng không phải là khách du lịch đến đây để thưởng lãm nghệ thuật. Cô chẳng hề giống những người một tay cầm camera, tay còn lại cầm cuốn cẩm nang du lịch đang xếp thành từng tốp ngoài kia. Tôi cá là cô thậm chí còn chưa xem tác phẩm mới của Matthew Barney nữa kìa.

- Tôi đang tìm một người. – Schuyler đáp lại.


- Ở triển lãm này ư? – Chàng thanh niên hỏi lại. – Khu vực nào vậy?


- Vẫn còn các khu khác ư? – Schuyler lại hỏi.


- Đương nhiên rồi, đây chỉ là “vườn” trưng bày thôi, còn có xưởng lớn và sảnh trưng bày nữa. Không gian của Triển lãm Biennale thực chất là toàn bộ thành phố Venice này. Cô sẽ gặp nhiều khó khăn nếu muốn tìm người ở chốn này đấy, vì có khoảng một triệu người tới tham quan Triển lãm, riêng trong “vườn” này cũng có tới ba mươi gian con.


Cả người Schuyler như muốn xịu xuống. Cô không hề biết Triển lãm Biennale lại lớn và chia thành nhiều khu trưng bày phức tạp đến thế. Trước khi đến đây, cô đã đi dọc các sảnh trưng bày, đi qua nhiều tòa nhà thuộc Triển lãm rồi mới tới được khu trưng bày dựng theo phong cách Italia này, thế nhưng cô không hề biết nó kéo dài tới đâu. Toàn bộ khu trưng bày (mà anh chàng kia gọi là “vườn”) là một khoảng không rất lớn bao gồm nhiều tòa nhà mô phỏng, được thiết kế theo phong cách của từng thời kỳ lịch sử. Chính vì vậy mà mỗi tòa nhà lại có nét đặc trưng riêng và mang trên nó phong cách nghệ thuật của cả một dân tộc.


Nếu những gì người thanh niên này nói là sự thực thì việc tới đây tìm ông cô thật chẳng khác nào mò kim đáy bể.


Vô vọng.


Bất khả thi.


Một triệu lượt người mỗi năm! Điều này cũng có nghĩa là phải có tới hàng nghìn người đang tham quan triển lãm ngay lúc này. Với tỉ lệ như thế, có lẽ nên sớm từ bỏ thì hơn. Schuyler thực sự thất vọng. Cô sẽ không bao giờ tìm được ông ngoại. Cho dù ông là ai, ông ở đâu, ông cũng không muốn người ta tìm thấy mình. Cô tự hỏi vì cớ gì mà cô lại bộc bạch hết với chàng trai kia như vậy, nhưng cô cảm thấy mình cũng chẳng còn gì để mất. Có điều gì đó trong đôi mắt chàng ta mang lại cho cô cảm giác dễ chịu và an toàn.


- Tôi đang tìm một người mà họ hay gọi là Giáo sư. Ông Lawrence Winslow Van Alen.


Chàng thanh niên điềm nhiên quan sát Schuyler trong khi cô nhìn quanh quất căn phòng tràn ngập trong ánh sáng đỏ. Anh ta cao và gầy, với chiếc mũi hơi hếch đầy vẻ thách thức, xương gò má lộ cả ra, và mái tóc dày có màu vàng caramel. Anh ta quàng một chiếc khăn lụa trắng quanh cổ, khoác bên ngoài là chiếc áo len may đo vừa vặn, còn chiếc kính râm kiểu phi công gọng vàng được đẩy lên cao quá vầng trán rộng.


- Khi người ta đã không thích xuất đầu lộ diện thì đừng cố công tìm kiếm làm gì. – Chàng trai đột nhiên cất tiếng.


- Sao cơ? – Schuyler hỏi lại, bất ngờ trước câu nói của chàng thanh niên, cùng lúc quay lại đối mặt với anh ta. Nhưng đúng lúc đó chàng trai đã nhanh trong lẩn ra sau tấm rèm nỉ dày màu đen và biến mất.


Schuyler cũng chạy theo anh ta ra khỏi khu trưng bày kiểu Italia; vừa chạy cô vừa bấm số gọi Oliver.


- Cậu gọi cho tớ đấy à? – Oliver hỏi bằng giọng điệu xun xoe đến tức cười.


- Chúng ta phải tìm một chàng trai cao ráo, tóc vàng, trông như tay đua xe hơi ấy. Anh ta đeo kính râm kiểu phi công, đi găng, mặc áo khoác ngoài bằng vải tuýt và quàng khăn lụa trắng. – Schuyler vừa chạy vừa thở lấy hơi trong khi cố mô tả lại hình dáng chàng thanh niên.


- Cậu đang đuổi theo một chàng người mẫu đấy à? Vậy mà tớ tưởng người chúng ta cần tìm là ông ngoại cậu chứ. – Oliver cười ngất.


- Tớ đang tán chuyện với anh ta, tớ nói cho anh ta tên ông ngoại và rồi anh ta biến mất. Tớ nghi anh ta biết điều gì đó… A lô? Ollie à? Cậu còn đó không? A lô? – Schuyler lắc lắc chiếc điện thoại và nhận ra trên màn hình không còn vạch sóng nào cả. Quỷ tha ma bắt. Mất tín hiệu rồi.


Lao băng băng giữa khu trưng bày rộng lớn như thể đang ngồi trong cỗ máy thời gian, Schuyler lướt qua những hội trường xây theo phong cách Hy La nhưng lại mang đậm nét hiện đại phóng khoáng; tiếp đến là những tòa nhà bên lề những con đường nhỏ và dài, ẩn sau những lùm cây rậm rạp. Schuyler thở dài, cảm thấy bất lực trong giây lát.


Nhưng cảm giác đó nhanh chóng biến mất. Cô lại cảm nhận được sự hiện hữu của chàng thanh niên kia quanh đây. Cô nhìn thấy bóng dáng anh ta vọt qua phía sau mô hình rạp hát Hy Lạp. Anh ta lướt qua những cây cột, lúc ẩn lúc hiện trong ánh mắt cô. Schuyler lao lên phía trước, lần này cô cẩn thận giữ tốc độ vừa phải, đề phòng có ai trong đám khách du lịch quanh đó nhận ra sự bất thường trong bước chạy của cô.


Rồi đột nhiên Schuyler thấy chàng trai lao ngang qua một lùm cây, nhưng khi đuổi tới nơi, cô thực sự lúng túng. Trước mặt cô chỉ có một tòa nhà chứ chẳng có lùm cây nào cả. Cô di chuyển nhanh trên các bậc thang để vào tòa nhà. Khi vào tới bên trong, cô mới hiểu ra tại sao nó lại khiến cô bối rối đến vậy. Bên trong tòa nhà được thiết kế giống y đúc một cái sân lộ thiên kiểu Tây Ban Nha , cây cối bên trong vẫn có thể mọc vươn cao lên không trung vì không có mái che, nhìn từ xa dễ tưởng nhầm là chúng mọc ở bên ngoài. Các bức tượng đặt điểm xuyết trên sàn nhà lát toàn đá trắng. Từ các hướng xung quanh, Schuyler nghe thấy những giọng nói Italia của các hướng dẫn viên du lịch đang dõng dạc giới thiệu cho khách tham quan.


Tập trung, Schuyler tự nhủ. Hãy lắng nghe. Lắng nghe tiếng bước chân của anh ta. Cô nhắm mắt lại, cố gắng cảm nhận bằng cách tập trung vào mùi hương đặc biệt đó, cái thứ mùi pha quyện của mùi da thuộc và hương nước hoa vương trên tấm khăn lụa. Rồi bỗng nhiên cô mường tượng ra anh ta, như thể cô nhìn thấy anh ta vừa bước ra từ một chiếc xe hơi thể thao mới cứng bóng lộn. Kia rồi! Schuyler nhìn thấy chàng trai đang đứng ở đầu kia của căn phòng.


Lần này, cô không ngại sử dụng tốc độ và sức mạnh vượt trội của mình. Cô chạy nhanh đến nỗi cô cảm tưởng như mình đang bay, và giống lần trước, cô cũng cảm nhận được niềm phấn khích dâng trao mà cuộc rượt đuổi đem lại. Schuyler thậm chí còn mạnh và nhanh hơn so với lúc đuổi theo người phụ nữ giống mẹ cô hồi đầu giờ chiều. Cô có thể cảm nhận được điều đó. Cô sẽ tóm được anh ta.


Chàng trai lại bắt đầu di chuyển ngược lại về phía “vườn” trưng bày. Dọc từ sảnh về phía vườn có nhiều tòa nhà trông hiện đại hơn nhưng hình dáng cũng đáng sợ hơn. Schuyler vừa chạy ngang qua một tòa nhà chỉ làm toàn bằng kính và tường của nó thì khắc đầy chữ và tên. Khi đến một tòa nhà khác làm từ những ống nhựa sáng màu trông như kẹo, cô thấy bóng dáng chàng trai di chuyển vào phía trong.


Bên trong tòa nhà tối om. Sàn nhà bằng kính, ngăn cách người xem với những tác phẩm nghệ thuật nằm bên dưới. Hoặc ít ra Schuyler cho đó là nghệ thuật. Tất cả những gì cô nhìn thấy chỉ là một đám robot đồ chơi quằn quại giẫm đạp lên nhau tầng tầng lớp lớp trong thứ ánh sáng đỏ, xanh lục và lam nổi bật giữa nền tối xung quanh. Ngay lúc đó, cô lại cảm nhận được có sự chuyển động trong phòng và từ khóe mắt mình, cô nhìn thấy đầu chàng trai di chuyển rất nhanh ra khỏi phòng từ cửa đối diện.


- Dừng lại! – Cô gọi.


Chàng trai quay đầu, nhìn cô mỉm cười rồi lại biến mất. Schuyler cũng đi ngược ra con đường dẫn trở về “vườn” trưng bày, một lần nữa quét mắt khắp đám đông tìm kiếm chàng thanh niên.


Chẳng có gì cả.


Phải có cái gì đó giúp cô tìm ra anh ta nhanh hơn chứ?


Schuyler nghĩ ngợi một lúc. Cô cố tưởng tượng về Lawrence, về nơi ông có thể ở và cả về lý do khiến ông bị nơi này thu hút. Có cái gì ở Triển lãm nghệ thuật Biennale này nhỉ?


Chợt nhớ ra tấm bản đồ ở túi sau, ngay lập tức, Schuyler lôi nó ra và nghiên cứu từng lối đi quanh co liên kết các khu trưng bày với nhau. Trong giây lát, cô cảm thấy mình thật ngu ngốc vì đã không nghĩ ra điều này sớm hơn. Sau khi đã xác định vị trí nơi cần đến, Schuyler gập tấm bản đồ lại và nhanh chóng đi về hướng đó.


Đúng lúc điện thoại của cô reo vang. Là Oliver.


- Sky à, cậu đang ở đâu thế? Cậu làm tớ lo quá.


- Tớ ổn. – Cô trả lời, bực mình vì bị cắt ngang. - Nghe này, tớ sẽ gọi lại cho cậu sau nhé. Tớ nghĩ tớ biết người đó đang ở đâu.


- Ai đang ở đâu? Schuyler, cậu định đi đâu vậy?


- Tớ sẽ ổn thôi. – Schuyler bắt đầu tỏ ra mất kiên nhẫn. – Ollie, làm ơn đừng lo cho tớ nữa. Tớ là một ma cà rồng mà.


Schuyler gác máy và chỉ sau ít phút, cô đã đứng trước một tòa nhà nhỏ xây bằng gạch đỏ. Đây là công trình hiện đại nhất so với hầu hết các công trình kì dị khác trong Triển lãm. Mặt tiền của tòa nhà thiết kế theo phong cách từ thời Thuộc địa Geogia, thời kỳ đầu của nước Mỹ. Đồ đạc trong nhà đều được sơn trắng, còn tay vịn cầu thang làm bằng sắt với những mẫu hoa văn trang trí rất cầu kỳ. Tất cả đều là những di tích từ thời xưa, gợi nhớ người ta về thời kỳ đầu thuộc địa ở Tân Thế giới.


Ngay khi nhét tấm bản đồ vào túi cô lại nhìn thấy chàng trai. Trông anh ta như thể già đi sau mỗi lần rượt đuổi: hơi thở chậm chạp và tóc rối bù. Anh ta có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy Schuyler đứng đó.


- Lại là cô à? – Chàng trai cất tiếng.


Lúc này là cơ hội của cô. Trước khi biến mất khỏi chu kỳ này, Cordelia đã dặn Schuyler rằng nếu tìm thấy Lawrence, hoặc bất cứ ai mà cô cho rằng có thể đưa cô tới gặp ông ấy, thì Schuyler phải nói những từ sau.


Cô bắt đầu nói bằng giọng rõ ràng và tự tin nhất mà cô có thể.


- Adiuvo Amicus Specialis. Nihilum cello. Meus victus est tui manus. Tôi đến để cầu xin người giúp đỡ tôi với tư cách là một người bạn bí mật và đặc biệt của tôi. Tôi không có gì che giấu người. Cuộc đời tôi nằm trong tay người.


Chàng trai ném về phía Schuyler cái nhìn băng giá chỉ có thể thuộc về đồng loại của cô. Tiếng nói của Schuyler tan dần trong không khí.


- Dormio. – Anh ta ra lệnh, cùng lúc đưa tay lên vẫy một cái.


Schuyler cảm nhận bóng tối ập đến và rồi cô thấy mình từ từ lịm đi.




--------------------------------------
Mục Lưu Trữ tờ New York Herald


Số ra ngày 15 tháng Ba năm 1871


HÔN ƯỚC KHÔNG THÀNH


Hôn ước giữa Ngài Burlington và quý cô Maggie Stanford không thành. Cô Maggie Stanford vẫn mất tích.


Hôn lễ giữa quý cô Maggie Stanford, con gái ông Tiberius và bà Dorothea Stanford vùng Newport, cùng Ngài Alfred Burlington, Bá tước vùng Devonshire đã bị hủy bỏ. Theo kế hoạch, hôm nay chính là ngày diễn ra lễ cưới giữa hai nhà Stanford và Burlington. Tuy nhiên, cô Maggie Stanford vẫn mất tích một cách bí ẩn từ sau đêm vũ hội Patrician sáu tháng trước. Chánh Thanh tra Campbell hiện vẫn đang tiếp tục duy trì cuộc điều tra này.


Nhà Stanford nghi ngờ đây là một hành động trả thù cá nhân, tuy nhiên không có thư đòi tiền chuộc hay bất cứ dấu hiệu gì của một vụ bắt cóc. Ông bà Stanford cũng treo thưởng cho bất cứ ai cung cấp thông tin liên quan đến nơi ở hiện nay của cô Maggie Stanford.

Vũ hội hóa trang - Chương 5

Mimi nhìn xuống chiếc di động đang rung lên, báo hiệu có tin nhắn tới trong lúc bước ra khỏi lớp tiếng Pháp nâng cao.

“Tớ có tên trong danh sách chứ?”
Lại thêm một tin nhắn khác. Chỉ mới có một buổi sáng mà cô đã nhận được bảy cái tin như thế này. Rõ ràng là mọi người không thể bình tĩnh hơn được nữa rồi.

Bằng cách nào đó, chỉ sau chưa đầy hai mươi tư tiếng đồng hồ, tin tức về kế hoạch tổ chức một bữa tiệc phụ sau Vũ hội Four Hundred do Mimi Force “sành điệu” khởi xướng đã lan ra khắp cộng đồng ma cà rồng trẻ ở New York. Hiển nhiên đó là nhờ Mimi đã rỉ tai Piper Crandall, tay “buôn dưa” số một trong trường; và cô nàng Piper này đã không bỏ lỡ một phút giây nào giúp cho tin tức nhanh chóng được loan truyền. Tất cả những gì mọi người biết là sẽ có một bữa tiệc tổ chức tại một địa điểm bí mật và do cặp sinh đôi nhà Force chủ trì. Nhưng không ai biết liệu mình có tên trong danh sách khách mời hay không, chỉ cho tới đêm diễn ra vũ hội. Thật đúng là một màn tra tấn tập thể!

Chỉ cần bấm C hoặc K!!! Nhưng Mimi xóa luôn mẩu tin mà chẳng thèm đáp lại dòng nào.

Mimi đi dọc xuống hành lang phía sau trường, dẫn tới căng-tin nằm dưới tầng trệt. Khi thấy bóng cô đi ngang qua, một vài teen Máu Xanh đã ra sức thu hút sự chú ý của cô.

- Mimi à… tụi này đã nghe tin về buổi tiệc phụ… Đúng là một ý tưởng tuyệt vời! Cậu có cần tụi này giúp một tay không? Ba tớ có thể mời Kanye và cả DJ cho bữa tiệc. – Blair McMillan gợi ý. Cô nàng này có ông bố là chủ công ty phát hành băng đĩa lớn nhất thế giới.

- Này Mimi, cậu sẽ mời tớ, đúng không? Tớ có thể mang theo bạn trai không? Anh ấy là một MĐ … Như thế sẽ rất cool, đúng không? – Soos Kemble giở giọng nịnh bợ.

- Này cưng, đừng quên mời chị đó nhen… - Lucy Forbes gọi với từ đằng xa, không quên gửi kèm một nụ hôn gió thật kêu.

Mimi chỉ cười nhã nhặn đáp lại tất cả bọn họ và đặt một ngón tay lên môi làm hiệu.

- Dù là chuyện gì thì tớ cũng không thể tiết lộ bây giờ được. Nhưng các cậu sẽ sớm biết thôi.

Phía dưới cầu thang dẫn xuống căng-tin, ngay bên dưới chiếc gương mạ vàng theo phong cách Ba-rốc treo trên lò sưởi, Bliss Llewellyn đang ngẩn người gắp miếng sushi, cứ như thể trước mặt cô không phải là miếng sushi ngon lành mà là thứ gì đó đáng ghê tởm. Bliss và Mimi Force đã hẹn cùng ăn trưa với nhau nhưng hiển nhiên cô ta lại đến muộn như thường lệ. Bỗng nhiên, Bliss cảm thấy mừng vì cuộc hẹn tạm thời bị trì hoãn. Nó cho cô cơ hội để lạc lối trong những suy nghĩ của riêng mình về sự kiện diễn ra đêm qua.

Dylan. Chắc chắn người lạ mặt đã cứu cô khỏi chết chìm trong công viên chính là cậu ấy. Bliss cần tin rằng Dylan đã thoát được nanh vuốt của Máu Bạc. Có lẽ lúc này cậu ấy đang lẩn trốn đâu đây, và có lẽ việc lộ diễn với bạn bè sẽ khiến cậu gặp nguy hiểm. Giống như một siêu nhân vậy, Bliss mơ màng. Còn ai khác có thể cảm nhận được nỗi buồn của cô? Còn ai khác có thể bơi trong làn nước lạnh giá để cứu cô? Còn ai khác có sức mạnh như vậy? Và còn ai khác mang lại cho cô cảm giác an toàn đến vậy? Bliss cứ ôm khư khư lấy đống câu hỏi này như thể nó là cái chăn ấm quấn quanh người cô. Dylan vẫn sống. Cậu ấy phải sống.

- Không đói à? – Mimi hỏi khi ngồi xuống cạnh cô.

Thay vì trả lời, Bliss đẩy cái khay thức ăn ra xa và xịu mặt. Đã đến lúc cô phải đẩy những ý nghĩ về Dylan ra khỏi tâm tư.

- Chuyện về bữa tiệc phụ là sao vậy? Mọi người cứ bám lấy mình để hỏi này hỏi nọ mà chẳng ai chịu tin là mình không hề biết chuyện gì đang diễn ra. Sau cú “vũ hội”, cậu và Jack lại định đập bóng tới tận đâu đây?

Mimi nhìn ra xung quanh để đảm bảo không ai nghe lỏm được họ, và chỉ khi đã chắc chắn cả hai đang trong vùng an toàn thì cô mới mở miệng nói.
- Ừ, mình đang tính nói với cậu chuyện này đây.

Mimi bắt đầu kể cho Bliss nghe từng chi tiết trong kế hoạch của mình. Cô đã tăm được một địa điểm hoàn hảo cho buổi tiệc - một thánh đường bỏ hoang ở khu thương mại phía nam Manhattan. Không có gì làm Mimi thích thú hơn việc tổ chức một cuộc “thác loạn” trong đêm ngay tại nơi đã từng là ngôi nhà của Chúa. Angel Orensanz là một tòa nhà mang dáng dấp Gô-tích, tọa lạc ngay tại trung tâm khu Lower East Side. Nó được xây dựng thành giáo đường vào năm 1849 bởi một kiến trúc sư đến từ Berlin; ông này đã mô phỏng nó theo Nhà thờ lớn Cologne của Đức. Mimi không phải người duy nhất sống tại New York muốn tổ chức những bữa tiệc “trên cả phóng túng” tại nơi này: trên thực tế, tòa nhà đã từng được trưng dụng làm nơi tổ chức nhiều show thời trang trong suốt Tuần lễ Thời trang diễn ra tại New York. Và đó cũng chính là lý do khiến Mimi nghĩ đến nơi này đầu tiên. Mimi không quan tâm tới chuyện ghi điểm về tính độc đáo, sáng tạo trong việc chọn lựa địa điểm mà cô chỉ đơn giản để ý tới đó là nơi nào, và giờ thì thánh đường một thời đã trở thành lựa chọn số một của cô.

- Bên trong chỗ này thực sự là một đống lộn xộn… - Giọng Mimi tràn ngập niềm hân hoan. - …kiểu như cột trụ đổ nát, xà nhà thì lộ hết cả ra… nhưng lại khiến nó trông như một tàn tích cổ rất đẹp. – Cô tiếp tục thì thầm với bạn mình. – Chúng ta sẽ thắp sáng toàn bộ chỗ đó bằng nến cốc thay vì đèn điện! Cũng không cần trang trí gì thêm nữa. Bản thân tòa nhà đó cũng đủ để tạo ra không khí cần thiết cho bữa tiệc rồi. Không phải tốn công thêm thắt mà làm gì.

Mimi xé một tờ giấy từ quyển vở lôi ra trong cái kẹp tài liệu và chuyền sang cho Bliss.

- Đây là danh sách khách mời của bữa tiệc. Mình đã lập nó trong suốt giờ tiếng Pháp đấy. -Đúng là Mimi đã đăng kí vào lớp học tiếng Pháp nâng cao, nhưng đối với cô, nó giống như một trò giết thời gian, bởi khi kí ức các chu kỳ trước của cô phục hồi, cô đã phát hiện ra mình biết đọc thông viết thạo ngôn ngữ này.


Bliss nhìn xuống những cái tên trong tờ danh sách. Froggy Kernochan. Jaime Kip. Blair McMillan. Soos Kemble. Rufus King. Booze Langdon.



- Đây chẳng phải đều là các thành viên trong Ủy Ban sao? Nhưng không phải tất cả Ủy Ban. – Bliss nhận xét.


- Chính xác.
- Cậu không mời Lucy Forbes à? – Bliss ngạc nhiên hỏi lại.

Lucy Forbes là một Máu Xanh đang học năm thứ ba trung học tại Duchesne và cũng là Thủ lĩnh nữ sinh của trường.

- Lucy Forbes là chuyên gia phá đám. Một kẻ đạo đức giả. – Mimi chun mũi đáp lại. Cô nàng luôn rình cơ hội trả đũa Lucy vì đã tố giác cô với Ủy Ban về hành vi lạm dụng thần linh quen thuộc loài người của mình bằng việc hút máu người đó mà không chờ hết khoảng thời gian 48 tiếng để Máu Đỏ kịp lấy lại sức.

Họ tiếp tục rà dọc danh sách, Bliss đưa ra một cái tên và ngay lập tức bị Mimi phản đối.

- Stella Van Rensslaer thì sao?

- Năm nhất! Cuộc vui này không có chỗ cho lính mới.

- Nhưng cô ấy sẽ ra nhập Ủy Ban vào mùa xuân tới. Ý tớ là, cô ấy dù sao cũng là một Máu Xanh. – Bliss cố cãi. Cô nêu tên của tất cả các ma cà rồng chưa chính thức gia nhập Ủy Ban. Nếu để chúng tham gia bữa tiệc, họ sẽ có thêm cơ hội trông chừng những đàn em đồng loại, cũng giống như cách mà Mimi đã từng trông coi Bliss hồi đầu năm.

- Sặc. Không được. – Mimi vẫn tiếp tục phản đối.

- Carter Tuckerman vậy? – Bliss lại đề xuất, trong đầu nghĩ về chàng trai gầy còm, thân thiện, người đã dành thời gian để sao chép giấy tờ như một thư ký trong suốt các cuộc họp mặt của Ủy Ban.

- Tên lập dị đó á? Không đời nào.

Bliss thở dài. Cô càng buồn hơn nữa khi mãi mà vẫn chưa nhìn thấy tên của Schuyler trên tờ danh sách.

- À, thế còn… cậu biết đấy… “những nhân vật quan trọng”, ờ, những “người quen” ý mà, họ có được dự không? – Bliss hỏi lại. Máu Xanh dùng cụm từ “người quen” để ám chỉ mối quan hệ khăng khít giữa ma cà rồng và con người. Những người này vừa là người yêu, vừa là bạn, là nguồn dinh dưỡng mang lại sức mạnh tuyệt đỉnh cho ma cà rồng.

- Máu Đỏ lại càng không được phép tham dự. Bữa tiệc này cũng giống như Vũ hội Four Hundred, thậm chí còn chọn lọc hơn. Nó chỉ để dành cho các ma cà rồng tuổi teen thôi.

- Mọi người sẽ không hài lòng với việc này đâu. – Bliss cảnh báo.

- Chính thế. – Mimi chỉ đáp lại bằng một nụ cười tinh quái.

Monday, June 14, 2010

Vũ hội hóa trang - Chương 4

Mục Lưu Trữ tờ New York Herald.


Số ra ngày 1 tháng 10 năm 1870.

SỰ BIẾN MẤT BÍ ẨN CỦA MAGGIE STANFORD


Con gái rượu của ông trùm dầu khí đã biến mất trong một đêm vũ hội. Liệu có phải một cuộc bắt cóc?


Cảnh sát New York đang đặt ra nhiều nghi vấn trước sự biến mất bí ẩn của cô gái mười sáu tuổi Maggie Stanford. Theo một số nguồn tin cho biết, cách đây ba tuần có người đã nhìn thấy cô Stanford đi ra từ dinh thự của Đô đốc Hải quân Thomas Vanderbilt, số 800 Đại lộ Số Năm, nơi lúc đó đang diễn ra vũ hội thường niên Patrician; và kể từ đó không ai còn nhìn thấy cô nữa. Quý cô Maggie Stanford là con gái của ông bà Tiberius Stanford, ngụ tại Newport. Các thám tử đang làm việc hết sức khẩn trương nhằm làm rõ vụ việc trên nhưng cho tới giờ vẫn chưa tìm ra manh mối nào.


Việc quý cô Stanford mất tích đã được báo lại tại đồn cảnh sát số 10 vào hôm thứ Sáu, ngày 22 tháng Tám vừa qua. Tối hôm đó, theo lời kể của mẹ nạn nhân, bà Dorothea Stanford - một phụ nữ có tiếng trong giới thượng lưu, cô Maggie vừa được giới thiệu tại vũ hội Patrician và là người mở đầu vũ hội với điệu cađri dành cho bốn nguời. Maggie là người khá trầm tính. Cô nặng bốn mươi ba ký, thân hình mảnh mai, xinh xắn, theo lời những người trong gia đình, Maggie có tính cách rất ôn hòa. Cô có mái tóc đỏ sẫm, mắt xanh lục bảo và khuân mặt thanh tú, yêu kiều. Cũng trong buổi tối vũ hội hôm đó, cô đã tuyên bố chính thức đính hôn với Ngài Alfred Burlington, Bá tước vùng Devonshire. Theo bà Stanford, con gái bà có khả năng đã bị bắt cóc hoặc bị dụ dỗ bởi những kẻ thuộc thế lực đen. Gia đình Stanford treo thưởng cho bất cứ ai tìm được thông tin nào giúp ích việc giải cứu con gái họ. Ông Tiburus Stanford chính là người sáng lập ra hãng dầu khí Stanford Oil, một trong những tập đoàn hùng mạnh nhất nước Mỹ.

-----------------------------------

CHƯƠNG 4



Rõ ràng bà ấy vừa ở đây cơ mà. Schuyler tin chắc như vậy. Người phụ nữ mà cô đuổi theo suốt cả chặng đường dài ban nãy đã chạy vào phía sau cánh cửa của chính cái tòa nhà mà cô đang đứng đây, thế mà giờ bà ta biến mất không thấy tăm hơi đâu.


Schuyler nhìn ra xung quanh. Cô đang ở trong hành lang của một nhà trọ nhỏ. Những nhà trọ và khách sạn bình dân kiểu này từng có thời là những cung điện nổi tráng lệ của thành Venice cổ. Còn giờ đây chúng trở thành nơi nghỉ tạm của khách du lịch - những người không cảm thấy quá phiền lòng bởi những song chấn gãy nát và lớp sơn trầy xước của tòa nhà, vì cuốn cẩm nang du lịch sáo rỗng đã hứa hẹn rằng chỉ như vậy họ mới được sống trong bầu không khí kiểu Ý “đích thực”.


Từ phía quầy lễ tân, một phụ nữ lớn tuổi, đầu trùm một chiếc khăn đen, ngước lên nhìn Schuyler với vẻ tò mò.


- Posso li aiuto? (Tôi có thể giúp gì được cô?)


Schuyler thực sự bối rối. Trong phòng không có bất kỳ dấu hiệu nào của người phụ nữ tóc vàng kia. Sao bà ta có thể lủi nhanh như vậy được nhỉ? Cô hầu như bám sát gót bà ta cơ mà. Căn phòng này xem ra cũng không có cánh cửa phụ hay chiếc tủ nào dành cho việc đào tẩu.


- Ci era una donna qui, si? (Có một người đàn bà vừa vào đây, đúng không ạ?) – Schuyler đáp lời. Cô thầm biết ơn vì trường Duchesne yêu cầu học sinh theo học không chỉ một mà những hai ngoại ngữ, và vì Oliver cứ khăng khăng muốn cô học tiếng Ý, đơn giản chỉ để “chúng ta có thể dễ dàng gọi món lúc đến nhà hàng Mario Batali”.


- Una donna? (Một phụ nữ ư?) - Người kia nhíu mày và lắc đầu. Bà đáp lại nhanh bằng tiếng Ý. - Trừ tôi ra, trong này chẳng còn ai. Còn từ bên ngoài vào thì chẳng có ai trừ cô.


- Bà chắc chứ ạ? – Schuyler vẫn nằn nì.


Cô tiếp tục hỏi bà chủ nhà trọ cho tới khi Oliver tới. Cậu nhảy lên bậc thềm tòa nhà từ một chiếc thuyền máy bóng nhoáng. Thật may là cậu đã nhanh chóng nhận ra chiếc “taxi nước” này hợp với hoàn cảnh của mình lúc đó hơn là một chiếc thuyền chèo tay.


- Cậu tìm được bà ta chưa? – Oliver hỏi.


- Bà ấy vừa ở đây. Tớ thề đấy. Nhưng người phụ nữ này nói chẳng có ai vào đây cả.


- Không có phụ nữ. - Người kia xen vào, lắc lắc đầu - Chỉ có một vị Giáo sư sống ở đây thôi.


- Giáo sư ư? – Schuyler hỏi lại như thể vớ được vàng. Ông ngoại cô cũng từng là giáo sư ngành ngôn ngữ học. Đó là những gì cô đọc được trong Kho Lưu Trữ Lịch Sử, một kho lưu trữ riêng của gia tộc Máu Xanh, nơi nắm giữ tất cả các tri thức cũng như những bí mật của gia tộc. – Ông ấy đâu rồi?


- Ông ấy đã rời đi từ nhiều tháng trước rồi.


- Khi nào ông ấy mới trở lại?


- Hai ngày, hai tháng, thậm chí là hai năm - bất cứ khi nào ông ấy muốn. Cũng có thể là ngày mai hoặc chẳng bao giờ cả. – Bà chủ nhà trọ thở dài – Chẳng ai biết gì về vị Giáo sư này. Nhưng may cho tôi là ông ấy luôn thanh toán đúng hạn.


- Liệu chúng tôi có thể… có thể ngó qua phòng ông ấy được không? – Schuyler hỏi.


Bà chủ nhà trọ nhún vai, đoạn đưa tay chỉ về phía cầu thang. Tim Schuyler đập mạnh trong lồng ngực, cô tiến về phía cầu thang, theo sát phía sau là Oliver.


- Khoan đã. – Oliver nói khi họ tới cánh cửa gỗ nhỏ nằm ở mặt trước của toà nhà. Cậu lắc nhẹ quả đấm. - Bị khóa rồi. – Oliver thử lại lần nữa. - Vẫn không được.


- Chết tiệt, cậu xem kĩ chưa? – Schuyler chen lên trên để thử. Cô xoay quả đấm và chốt cửa bật mở.


- Sao cậu làm được như vậy? – Oliver kinh ngạc.


- Tớ có làm gì đâu.


- Nhưng nó thật sự bị khóa mà. – Oliver thanh minh.


Schuyler nhún vai rồi nhẹ nhàng đẩy cánh cửa. Bên trong là một căn phòng nhỏ sắp đặt gọn gàng, ngăn nắp; trong phòng kê một chiếc giường đơn, một chiếc bàn gỗ cũ và những hàng giá sách chất cao lên tới tận trần nhà.


Schuyler lôi ra một cuốn sách từ hàng kệ phía dưới.


- “Cái Chết và Sự Sống ở Các Thuộc Địa Plymouth – tác giả Lawrence Winslow Van Alen.” – Schuyler đọc tiêu đề cuốn sách rồi giở trang đầu tiên. Ngay trên đầu là một dòng chữ viết tay thanh thoát: “Dành tặng Cordelia thân yêu của tôi.”


- Đúng là ông rồi. – Schuyler thì thầm – Ông ngoại tớ đang ở đây... - Schuyler ngó qua vài cuốn sách khác trên giá và nhận ra có rất nhiều cuốn đề tên tác giả L. W. Van Alen.


- …lúc này thì không, ông ấy đã đi rồi. – Bà chủ nhà trọ xuất hiện nơi cửa ra vào, tiếp lời Schuyler ban nãy, khiến cả cô lẫn Oliver nhảy dựng lên vì giật mình. – Nhưng hôm nay cũng là ngày Biennale kết thúc mà Giáo sư thì chưa bao giờ bỏ lỡ dịp này.


Biennale, triển lãm nghệ thuật được tổ chức hai năm một lần tại Venice, là một trong số những cuộc triển lãm tầm cỡ và uy tín nhất của làng nghệ thuật cũng như kiến trúc thế giới. Cứ hai năm một lần, trong suốt hàng tháng trời, những nghệ sĩ, những nhà buôn tranh, khách du lịch và cả học sinh, sinh viên từ khắp mọi miền trên thế giới đổ về Venice, háo hức được trở thành một phần của festival nghệ thuật tầm cỡ này. Đó là sự kiện mà Schuyler và Oliver đã bỏ lỡ trong suốt dịp cuối tuần ở đây chỉ vì mải mê với cuộc tìm kiếm vô vọng ông ngoại cô.


- Nếu hôm nay triển lãm kết thúc… - Schuyler nói - … thì chúng ta lại càng phải nhanh lên.


Bà chủ nhà trọ gật đầu đồng tình rồi rời căn phòng.

Schuyler lại tiếp tục thắc mắc về người phụ nữ trông giống mẹ cô đến mức lạ kì. Liệu có phải mẹ cô đã chỉ đường dẫn lối cho cô tìm đến ông ngoại? Có phải mẹ đang cố giúp cô không? Hay chỉ là hồn phách của mẹ mà cô đã nhìn thấy?


Họ vội vã xuống lầu và thấy bà chủ nhà trọ đang sắp xếp lại giấy tờ trên bàn lễ tân.

- Cám ơn bà đã giúp đỡ chúng cháu. – Schuyler nói trong khi cúi chào người phụ nữ đứng tuổi.


- Sao cơ? Cô nói gì vậy? Posso li aiuto? (Tôi có thể giúp gì cho hai người?) - người phụ nữ ngạc nhiên.



- Về vị Giáo sư, về Biennale, tụi cháu sẽ đi tìm ông ấy ngay bây giờ đây.
 - Giáo sư? Ồ, không, không. Không có Giáo sư nào ở đây… - Bà chủ nhà trọ làm dấu Thánh và liên tục lắc đầu.

- Không có Giáo sư ư? Theo cậu, ý bà ta là sao? – Schuyler nhíu mày, quay sang hỏi Oliver.


- Giáo sư đã đi… từ hai năm trước rồi. – Bà chủ nhà trọ nói bằng thứ tiếng Anh nhát gừng. - Ông ấy không còn sống ở đây nữa.


- Nhưng bà vừa mới nói là… - Schuyler cãi lại. – Chúng ta vừa mới nói chuyện trên lầu mà. Chúng cháu thậm chí đã ở trong phòng ông ấy.


- Tôi chưa bao giờ gặp hai người trước đây và phòng ông ấy đã bị khóa rồi. – Bà chủ nhà trọ trả lời; trông mặt bà thực sự sốc trong khi vẫn kiên quyết dùng thứ tiếng Anh khập khiễng, mặc kệ Schuyler từ nãy giờ vẫn đáp lại bằng tiếng Ý, thậm chí cô còn nói rất lưu loát là khác.


- Eravamo giusti qui. (Nhưng chúng cháu vừa ở đây lúc nãy mà.) – Schuyler tiếp tục đôi co trong khi người phụ nữ kia chỉ lắc đầu và tự lẩm bẩm điều gì nghe không rõ.


- Có cái gì đó khang khác ở người phụ nữ này. – Schuyler thì thầm với Oliver khi họ bước ra khỏi nhà trọ.


- Ừ đúng đấy, bà ta trông còn kì quặc hơn cả lúc trước. – Oliver tếu táo.


Schuyler quay đầu lại để nhìn người phụ nữ một lần nữa, và nhận ra rằng bà ta có một nốt ruồi bên dưới cằm, thậm chí cô còn nhìn thấy vài sợi lông mọc ra từ đó. Nhưng người phụ nữ cô gặp lúc đầu không hề có nốt ruồi nào như thế. Cô dám đoan chắc chuyện này.

Vũ hội hóa trang - Chương 3

Đây không phải lần đầu tiên Bliss Llewellyn mơ thấy những hình ảnh này. Trong mơ, lúc nào cô cũng có cảm giác lạnh giá, ẩm ướt và khó thở. Những giấc mơ trước đây của cô đều như vậy, nhưng riêng lần này, cô có cảm giác nó chân thực hơn bao giờ hết. Người Bliss lạnh cóng, run lên từng cơn; rồi khi mở mắt ra đối diện với màn đêm đen đặc, cô cảm nhận được sự hiện diện của một ai đó khác nữa trong bóng tối. Một bàn tay nắm lấy cánh tay cô, kéo cô tiến lên phía trước, cứ như thế hướng về phía ánh sáng cho tới khi xuyên thủng làn nước lạnh giá. Ùm!

Bliss ho sặc sụa, đoạn thở hổn hển rồi nhìn ra xa xung quanh. Không phải là mơ. Là hiện thực. Cô đang nổi lênh đênh giữa một hồ nước.


- Bắm chắc vào, cô còn yếu lắm. Tôi sẽ đưa cô vào bờ. - Một giọng nói trầm thấp vang lên bên tai cô, ẩn chứa sự dịu dàng và bình tĩnh.


Bliss cố gắng xoay đầu lại để nhìn mặt người nọ nhưng ngay lập tức bị anh ta chặn lại.


- Đừng cử động, cũng đừng ngoái ra phía sau, chỉ tập trung hướng về bờ thôi.

Bliss gật đầu khiến những giọt nước đọng trên mái tóc chảy xuống mắt cô. Cô vẫn còn ho vì sặc nước và cảm thấy buồn nôn khủng khiếp. Hai cánh tay và đôi chân cô mỏi rã rời mặc dù không hề có dòng nước nào cản trở họ. Mặt hồ phẳng lặng không một gợn sóng. Trông nó thậm chí còn không giống một cái hồ. Mắt Bliss dần điều chỉnh trong bóng tối, cô nhận ra mình đang ở Công viên Trung tâm, giữa hồ nước nhân tạo trong công viên, nơi mà mùa hè năm ngoái, trước khi nhập học vào Duchesne, ba mẹ đã đưa cô và em gái đến cửa hàng nhà bè ăn tối.

Vào giờ này thì chẳng còn con thuyền nào trên hồ. Lúc này đã gần cuối tháng Mười Một rồi nên chẳng còn mấy ai ra hồ chơi. Trên mặt đất đã bắt đầu xuất hiện sương giá, và lần đầu tiên trong suốt tối hôm đó, Bliss cảm nhận được cái lạnh tràn cả vào trong tĩnh mạch mình. Người cô bắt đầu run lên như cầy sấy.

- Sẽ ổn thôi. Máu cô sẽ nóng lại nhanh thôi, đừng lo. Ma cà rồng không bao giờ chết vì lạnh đâu. - Giọng nói đó lại vang lên.


Bliss Llewellyn đến từ Texas. Đó luôn là thông tin đầu tiên cô tiết lộ mỗi khi làm quen với một ai đó. “Tôi đến từ Texas”. Cứ như thể xác định được cô đến từ đâu sẽ giải thích được tất cả mọi điều về cô: từ âm điệu giọng nói, mái tóc xoăn dày tới những chiếc khuyên tai dát kim cương năm cara. Đó cũng là cách gợi cô nhớ về quê nhà yêu dấu và cuộc sống trước đây của mình, một cuộc sống dường như cách xa cả thế kỷ so với cuộc sống hiện tại của cô trong vai một trong những cô nàng đỏm dáng nhất New York.


Ở Texas, Bliss luôn luôn nổi bật. Cô cao tầm một mét bảy bảy (cộng thêm cả mái tóc dày, cô dễ cao đến hơn mét tám), dáng người săn chắc, và dường như không bao giờ biết đến nỗi sợ hãi là gì. Cô là thành viên đội cổ động duy nhất có thể thực hiện được cú nhào lộn tiếp đất từ trên đỉnh tháp năm mươi người chồng lên mà vẫn an toàn hạ cánh xuống sân cỏ mềm mượt. Trước khi phát hiện ra mình là một ma cà rồng và sở hữu những sức mạnh phi thường, Bliss luôn nghĩ rằng những gì cô có được là nhờ may mắn cộng với việc chăm chỉ luyện tập.

Bliss sống với gia đình tại một biệt thự sang trọng có cổng rào xung quanh ở khu ngoại ô riêng biệt của thành phố Houston. Hàng ngày cô đến trường bằng chiếc Cadillac cổ có thể bỏ mui của ông cô. Một chiếc xe cổ chính hãng với cặp sừng trâu gắn trên nắp capo. Nhưng ba cô vốn sinh trưởng tại Manhattan, và sau khi đã trở thành chính trị gia số một của Houston, ông đột nhiên tranh cử chiếc ghế Thượng nghị sĩ đang trống của New York. Ông đắc cử và gia đình cô chuyển về Manhattan.

Việc thích nghi với cuộc sống phù hoa tại “Big Apple” (Quả táo lớn) sau khi đã sống cả tuổi thơ tại Houston thực sự khó khăn đối với Bliss. Cô cảm thấy không thoải mái trong những câu lạc bộ đêm sang trọng và cả những buổi party đình đám mà Mimi Force, người bạn thân luôn cho mình là trung tâm mà cô mới làm quen khi chuyển đến đây, đã kéo cô vào. Chỉ cần đưa cho Bliss một chai Boone, một vài người bạn gái, một đĩa DVD phim “The Notebook” (Nhật Ký) là đủ làm cô hạnh phúc rồi. Cô không thích tụ tập tại những câu lạc bộ, mang theo mình cái cảm giác chỉ là phông nền cho người khác trong khi nhìn nhân vật chính Mimi Force chìm trong những cuộc vui tưng bừng. Nhưng cuộc đời cô bỗng như rẽ sang một ngã khác khi cô gặp Dylan Ward, một chàng trai mắt đen với khuôn mặt buồn bã nhưng lại luôn có những biểu lộ chan chứa tình cảm và… vô cùng quyến rũ. Chính tại con hẻm nhỏ dưới khu Lower East Side một đêm cách đây vài tháng, cậu đã bắt chuyện với cô khi giúp cô châm điếu thuốc lá. Cũng như cô, Dylan là một thành phần “ngoài rìa” tại trường Duchesne, nhưng theo một hướng khác. Cậu là một kẻ nổi loạn tách biệt với các học sinh khác, khuôn mặt lúc nào cũng sưng sỉa ủ rũ, và chỉ chơi chung với đám bạn kém cỏi – Oliver Hazard-Perry và Schuyler Van Alen, hai học sinh mờ nhạt nhất trong khối. Đối với Bliss, Dylan còn hơn cả một người bạn; cậu là đồng minh, thậm chí có thể coi là bạn trai của cô. Cô đỏ mặt khi nhớ lại những nụ hôn sâu, ngọt ngào cậu trao cô. Ôi! Giá như cái đêm ấy tại nhà cô, ba cô không xuất hiện. Giá như…
Giá như Dylan đừng chết. Nhưng cậu đã bị biến đổi, trở thành một Máu Bạc điên cuồng, khát máu và rồi lại bị chính những kẻ biến đổi cậu giết chết khi cố quay lại cảnh báo cho cô… Đôi mắt Bliss lấp lánh những giọt nước mắt mỗi khi nhớ lại cảnh cô tìm thấy chiếc áo khoác ngoài của cậu nhàu nhĩ trên sàn phòng tắm nhà cô. Chiếc áo thấm đẫm toàn một màu đỏ của máu.


Bliss đã từng nghĩ rằng đó là lần cuối cùng cô nhìn thấy Dylan, vậy mà… chàng trai đã cứu cô… cái giọng trầm thấp như rót vào tai cô nghe sao mà thân thương đến vậy. Cô không dám hy vọng, cô cũng không muốn tin vào một điều không có thực. Cô bấu víu vào người thanh niên khi anh ta kéo cô vào bờ.


Đây không phải là lần đầu Blis thấy mỉnh tỉnh dậy ở một nơi xa lạ, và gần như lúc nào cũng trong trạng thái nguy hiểm. Chỉ mới tuần trước cô tỉnh giấc và nhận ra mình đang nằm chênh vênh bên mép tầng cao nhất của Bảo tàng Cloisters, mãi tận khu Công viên Fort Tryon. Thậm chí chân trái cô lúc đó đã chới với ngoài không trung. Bliss tỉnh dậy vừa kịp lúc lăn ngược trở lại, tự cứu mình khỏi cú rơi kinh hoàng. Bliss nhận ra có lẽ cô cũng không thể chết kể cả có rơi từ độ cao đó xuống chăng nữa, nhiều lắm chỉ xây xước vài chỗ là cùng, rồi cô tự hỏi không lẽ trong tiềm thức cô muốn tự sát? Vậy thì cách nào mới thành công đối với một người bất tử như cô? Còn hôm nay thì cô lại tỉnh dậy ở giữa một cái hồ.


Những cơn mất ý thức tạm thời, những ác mộng mà lúc nào cô cũng thấy hình ảnh ai đó đang đuổi bám theo mình, và rồi tỉnh dậy thấy mình lúc thì ở đây, lúc lại ở kia ngày, sự việc ngày một trở nên tồi tệ hơn. Chúng bắt đầu từ năm ngoái khiến Bliss sợ hãi tột cùng, kèm theo là những cơn đau đầu như búa bổ do bị ám ảnh bởi những hình ảnh đáng sợ về đôi mắt đỏ ngầu, những cái răng sáng bóng, sắc nhọn với con ngươi màu bạc… và cả những cảnh cô chạy dọc những hành lang dài vô tận trong khi con quái thú bám sát đằng sau, hơi thở hôi hám càng lúc càng gần, đoạn tóm lấy cô, giữ chặt cô trên sàn nhà nơi nó sẽ nuốt sống linh hồn cô. Dừng lại ngay, cô ra lệnh cho bản thân. Tại sao phải nghĩ về những chuyện đó lúc này? Những hình ảnh ghê rợn ngay lập tức biến mất nhưng con quái thú hay dù nó là bất cứ cái gì chăng nữa cũng đã làm tổ trong trí tưởng tượng của cô mất rồi. Không phải ba cô đã nói rồi sao? Rằng những cơn ác mộng đơn giản chỉ là một phần của quá trình biến đổi? Bliss mới mười lăm tuổi, cái tuổi mà kí ức của ma cà rồng bắt đầu hồi phục, cái tuổi mà Máu Xanh bắt đầu nhận ra nhân dạng thực sự của họ từ trước khi họ bắt đầu cuộc hành trình bất tử trên trái đất này.


Bliss cố gắng nhớ lại tất cả mọi chuyện đã xảy ra trong ngày hôm đó, xem có một chút manh mối nào giải thích lý do tại sao cô lại bất tỉnh trong hồ nước ở Công viên Trung tâm hay không. Buổi sáng cô vẫn tới trường như thường lệ, rồi sau đó tham gia buổi họp hàng tuần tẻ nhạt của Ủy Ban. Ủy Ban đáng ra có nhiệm vụ dạy dỗ cô cũng như tất cả những ma cà rồng mới cách kiểm soát và sử dụng các siêu giác quan của họ, nhưng trong suốt hai tháng qua, tất cả những gì bọn họ làm là lên kế hoạch chuẩn bị cho cái bữa tiệc quý tộc ấy. Mẹ kế của Bliss, BobiAnne, cũng tham gia buổi họp và đã làm cô xấu hổ vì cái giọng chói tai, bộ đồ lòe loẹt, từ đầu tới chân đâu đâu cũng thấy cái mác hiệu Vuitton của bà. Bliss không biết là hãng này lại còn sản xuất cả những bộ quần áo đồng màu với những cái túi xách nâu đặc trưng nữa cơ đấy. Cô nghĩ trông mẹ kế cô nhìn như thể một cái vali di động to đùng, sáng choang những màu nâu và vàng.


Khi buổi họp kết thúc, nhân ngày ba cô được nghỉ ở nhà nên cả gia đình đi ăn tối tại nhà hàng Le Cirque mới khai trương tại một trong những khu sang trọng nhất của tòa nhà One Beacon Court. Trong nhà hàng xuất hiện đầy các nhân vật quyền lực và giàu có. Thượng nghị sĩ Llewellyn dành cả buổi tối cho việc bắt tay với những vị tai to mặt lớn khác: Thị trưởng, biên tập viên truyền hình, diễn viên, và một Thượng nghĩ sĩ khác của New York. Lúc ngồi vào bàn, Bliss gọi món pate gan tái, rồi sung sướng thưởng thức lớp mứt quả lý gai phủ bên trên chiếc gan rưới đầy kem tươi ngậy.


Sau bữa ăn, họ đến nhà hát xem opera. Ngồi tại một lô VIP dành riêng cho gia đình, cả nhà cô theo dõi sản phẩm mới nhất của Met Production: vở Orfeo ed Euridice . Bliss rất thích câu chuyện tình bất hạnh về Orpheus, người đã dám xuống tận Địa ngục để cứu người vợ yêu dấu, Eurydice, nhưng rồi tới phút cuối chàng vẫn mất nàng. Tuy yêu thích câu chuyện là vậy nhưng giọng hát thống thiết và sang sảng đã đánh gục Bliss, đưa cô chìm vào giấc ngủ. Và trong mơ, cô thấy mình đang ở Địa ngục đầy nước của Hades.


Đó cũng chính là nơi hồi tưởng của cô kết thúc. Không biết lúc này gia đình cô có còn trong nhà hát hay không? Cô nhớ lại hình ảnh ba cô ngồi như một bức tượng thần cứng nhắc mà uy nghiêm, hai tay ông khum lại dưới cằm, chăm chú theo dõi vở diễn trong khi mẹ kế cô nhăn mặt và ngáp dài, còn đứa em gái, Jordan, thì chỉ ngồi lặng lẽ, hát nhẩm theo từng lời của vở kịch. Jordan mới chỉ mười một tuổi nhưng là một tín đồ cuồng nhiệt nhất của opera, ít ra đối với Bliss thì có vẻ là vậy.


Giờ thì họ đang tiến gần tới chiếc cầu nơi những con thuyền neo đậu. Bàn tay chắc chắn của người lạ mặt kéo cô lên chiếc thang gần chân cầu. Bliss bị trượt chân nhưng vẫn đi được. Cho dù đó là ai đi nữa thì ít nhất anh ta cũng đúng ở một điểm: dòng máu ma cà rồng trong cô đang dần lấy lại sức nóng, và chỉ sau ít phút, Bliss thậm chí còn không nhận ra nhiệt độ ngoài trời lúc này chỉ trên dưới năm độ. Nếu là người bình thường thì giờ này cô đã chết cóng và chìm nghỉm trong hồ nước lạnh rồi.


Bliss nhìn xuống bộ quần áo ướt như chuột lột. Cô vẫn mặc bộ đồ đó từ lúc đi ăn tối và xem opera. Chiếc váy hiệu Temperley bằng vải sa-tanh với những đường thêu tinh tế giờ chỉ như một đống nùi sũng nước. Với một bộ đồ chỉ được phép giặt khô thì đây đúng là thảm họa của thảm họa. Đôi giày da cao năm phân hiệu Balenciaga giờ cũng còn đúng một chiếc. Chiếc thứ hai chắc đã nằm sâu dưới đáy hồ rồi. Bliss bối rối nhìn vào tờ giới thiệu chương trình của vở opera mà cô vẫn giữ chặt trong tay, đoạn thả nó rơi nhẹ nhàng xuống nền đất.


- Cám ơn anh… - Cô nói, quay lại phía sau để nhìn cho rõ khuân mặt của ân nhân.


Nhưng chẳng có gì đằng sau cô, ngoài làn nước xanh yên bình nơi mặt hồ nhân tạo. Chàng trai lạ mặt đã biến mất.

Vũ hội hóa trang - Chương 2

Mimi Force thở dài hạnh phúc khi quan sát cảnh tượng khẩn trương, hối hả bên trong phòng Jefferson tại trường Duchesne. Lúc này là buổi chiều muộn ngày thứ Hai đầu tuần, giờ học ở trường đã kết thúc, nhường chỗ cho cuộc họp hàng tuần của Ủy Ban. Các ma cà rồng Máu Xanh mẫn cán tụ tập thành những nhóm nhỏ quanh chiếc bàn tròn, bàn bạc về những chi tiết cuối cùng chuẩn bị cho buổi tiệc của năm: Vũ hội Four Hundred thường niên.



Cô nàng Mimi tóc vàng, mắt xanh lục bảo và người anh trai sinh đôi của cô, Jack, cũng có mặt trong số các ma cà rồng trẻ được giới thiệu ở vũ hội năm nay. Đây là một truyền thống đã có từ hàng trăm năm trước. Màn giới thiệu vào Ủy Ban, thực chất là một hội kín lớn gồm những ma cà rồng quyền lực nhất New York, chỉ là bước khởi đầu. Việc ra mắt các ma cà rồng trẻ mới được bổ nhiệm vào Ủy Ban trước toàn thể gia tộc Máu Xanh mới là sự kiện lớn quan trọng. Nó giống như nghi thức thừa nhận lịch sử tồn tại của một ma cà rồng cũng như những trách nhiệm trong tương lai của người đó. Bởi vì sau mỗi một chu kỳ mà các ma cà rồng thường gọi là “vòng đời”, Máu Xanh lại quay trở lại dưới những vỏ bọc - thân phận khác nhau cùng những cái tên mới, nên buổi ra mắt của họ, nói hoa mỹ hơn là cuộc “trình diện” của họ trước cộng đồng Máu Xanh, là vô cùng quan trọng trong quá trình nhận diện một ma cà rồng. Mimi Force không cần người ta phải đánh trống thổi kèn, loa to tên họ cô cũng như thân phận của cô trong những chu kỳ trước đây. Bởi cô là Mimi Force, cô gái xinh đẹp nhất trong lịch sử thành phố New York, và là con gái độc nhất của Charles Force, người nắm quyền Thủ lĩnh cũng tức là tộc trưởng tộc Máu Xanh, một người đàn ông quyền lực, được cả thế giới biết đến với vai trò ông trùm truyền thông - ông chủ của kênh truyền hình Force News Network với phạm vi hoạt động trải rộng trên toàn thế giới, từ Singapore cho tới Addis Ababa(1) . Cô là Mimi Force, cô gái sở hữu mái tóc óng ả như sợi dệt kim, làn da như kem bơ tươi, và một đôi môi căng mọng đầy gợi cảm sánh ngang với đôi môi của cô đào Angelina Jolie. Cô được mệnh danh là quả-bom-sex-vị-thành-niên với một hàng dài chạy dọc từ đầu này sang đầu kia thành phố những người hâm mộ: những anh chàng thừa kế môn đăng hộ đối, những cậu bạn trai máu đỏ cực “hot” - những thần linh loài người quen thuộc của cô.


Nhưng từ lâu, rất lâu rồi và ngay giờ phút này vẫn vậy, trái tim của cô chỉ thuộc về một người duy nhất. Một người gần gũi trong gia đình. Nghĩ tới đây, ánh mắt Mimi đánh sang ngang, hướng về phía người anh song sinh, Jack Force.


Cho tới giờ phút này, Mimi hoàn toàn hài lòng. Mọi thứ được sắp đặt đâu vào đấy để chuẩn bị cho buổi vũ hội hoàn hảo sẽ diễn ra tại khách sạn St. Regis. Đây sẽ là bữa tiệc lớn nhất của năm. Khác với cái buổi diễn xiếc tin hin, tồi tàn mà người ta vẫn hay gọi là Lễ trao giải Oscars, nơi khách mời chỉ toàn những diễn viên bèo bọt và không có được chút đầu tư công phu nào, vũ hội Four Hundred là dạ tiệc cầu kỳ theo đúng phong cách quý tộc xưa. Nó là nơi để người ta khẳng định giai cấp, địa vị, sắc đẹp, quyền lực, tiền bạc và cả dòng dõi của mình. Phải, dòng dõi, nói chính xác trong trường hợp này là dòng dõi Máu Xanh cao quý. Đó là một buổi tiệc dành riêng cho ma cà rồng: một sự kiện độc nhất vô nhị tại New York, nếu không muốn nói là trên toàn thế giới.


Không có bất kỳ Máu Đỏ nào được phép tham dự.


Tất cả hoa đều đã được đặt trước. Những bông hồng Vẻ đẹp Mỹ màu trắng thuần khiết. Hai mươi ngàn bông, loại đặc biệt được trồng ở Nam Mỹ, đã được đặt hàng chuyển về bằng đường hàng không cho dịp này. Mười ngàn bông hồng sẽ được dùng để kết thành cổng vòm đón khách, số còn lại sẽ được đặt rải rác trong sảnh chính. Để tạo ra mười ngàn bông hồng lụa kết thành những chiếc vòng hoa, người ta đã thuê hẳn nhà tổ chức sự kiện đắt giá nhất New York, người đã biến Bảo tàng Metropolitan thành một xứ sở thần tiên mang phong cách Nga, dựa theo khuân mẫu trong cuốn tiểu thuyết “Bác sĩ Zhivago”(2), trong cuộc triển lãm về nước Nga do Viện Y phục tổ chức. Cuối cùng nhưng không kém phần xa hoa: toàn bộ phòng khiêu vũ sẽ được xịt hàng chục lít nước hoa hồng.



Xunh quanh Mimi, tất cả các thành viên trong Ủy Ban đang thảo luận những vấn đề chuẩn bị cho giờ G. Trong lúc những thành viên trẻ, những học sinh trung học như cô, còn đang bận bịu điền những chiếc thiệp RSVP(3) , kiểm tra lại danh sách khách mời, đảm bảo với bên hậu cần việc chuẩn bị sân khấu cho hai dàn nhạc giao hưởng lớn trình diễn nhạc đệm trong vũ hội và cả việc lo thiết bị chiếu sáng các thành viên trong ban lãnh đạo Ủy Ban, dẫn đầu bởi Priscilla DuPont, một phụ nữ có vai vế tại Manhattan mà hình ảnh vương giả của bà thường chói sáng trên những cột báo xã hội hàng tuần. Bà Dupont cũng có chân trong việc quyết định những vấn đề quan trọng của thành phố. Lúc này, bà đang bị vây quanh bởi một nhóm phụ nữ có kiểu đầu chải chuốt, tinh tế, trông từa tựa giống nhau. Những người này đã thay mặt Ủy Ban, miệt mài cống hiến cho việc bảo tồn nhiều di tích và thắng cảnh quan trọng, cũng như nhiều cơ quan văn hóa nổi danh của thành phố. Nhờ khả năng siêu thính mà Mimi đã nghe lỏm được câu chuyện giữa bọn họ.



- Giờ ta sẽ chuyển sang chuyện về Sloane và Cushing Carondolet… – Priscilla tỏ ra phiền não trong khi tay bà nhặt một tấm biển ghi tên chỗ ngồi làm bằng vải lanh trắng ngà đặt trên chiếc bàn trước mặt. Trên mỗi tấm biển là tên họ của các vị khách mời và số bàn họ sẽ ngồi được thiết kế hoa văn và in nổi. Khách mời sẽ nhận những tấm biển này tại bàn khánh tiết ngay chỗ cổng vòm.
Khi Priscilla nhắc tới cái tên Carondolet, một làn sóng những tiếng thì thầm phản đối nổi lên giữa những người phụ nữ. Thái độ bất phục tùng ngày một gia tăng của nhà Carondolet thật khó mà khiến người ta lờ đi được. Sau cái chết của cô con gái Aggie vài tháng trước, gia đình này bắt đầu có những biểu hiện chống đối rõ rệt đối với Ủy Ban. Có tin đồn cho rằng họ thậm chí còn đe dọa sẽ kêu gọi mọi người chống lại ba của Mimi.


- Sloane không thể tham dự cùng chúng ta hôm nay được – Priscilla tiếp tục – nhưng chị ấy đã gửi phần đóng góp hàng năm của nhà họ. Tuy số tiền không bằng năm ngoái nhưng vẫn là một con số lớn, chứ không như nhiều gia đình khác mà tôi không muốn kể tên ra đây.Tất cả tiền đóng góp cho vũ hội Four Hundred sẽ được chuyển vào quỹ của Ủy Ban Ngân Hàng Máu New York, vỏ bọc bên ngoài của Ủy Ban dưới hình thức một tổ chức quyên tiền tài trợ cho các nghiên cứu về máu. Ngoài ra họ cũng ủng hộ cho các chiến dịch chống bệnh AIDS và bệnh máu loãng khó đông.
Đó gần như là một nghĩa vụ mà các gia đình phải làm để duy trì ngân sách của Ủy Ban. Thêm vào đó, các khoản hỗ trợ bên ngoài từ một số gia đình khiến cho ngân quỹ hàng triệu đô-la của Ủy Ban như được tiếp thêm nhiên liệu. Chẳng hạn như nhà Force, số tiền mà họ đóng góp vượt xa con số mà Ủy Ban yêu cầu. Trong khi đó, một vài gia đình khác như gia đình Van Alen, một chi tộc đáng thương từng có thời nắm quyền hùng bá thì giờ đây phải chịu cảnh thắt lưng buộc bụng mới có đủ tiền đóng góp theo qui định. Còn hiện tại, chủ gia đình Cordelia đã qua đời, Mimi không chắc Schuyler có thực sự hiểu chuyện gì đang trông đợi cô ta không.


- Nhưng vấn đề là… - Trinity Burden Force, mẹ của Mimi, bắt đầu bằng một giọng du dương – ... họ có xứng đáng ngồi tại vị trí danh dự như trước đây nữa không? Sau tất cả những điều họ đã nói về Charles. – Câu hỏi của Trinity đã ngầm thông báo cho Ủy Ban biết bà và chồng mình thà dự tiệc trên đống tro còn hơn là ngồi chung một bàn với người nhà Carondolet.- Theo tôi, cứ “cắt” họ ngồi ở bàn phía sau với những gia đình thấp kém! – BobiAnne Llewellyn the thé tuyên bố bằng chất giọng Texas đặc trưng. Vừa nói, bà ta vừa đưa tay lên giả bộ hài hước cắt một vết ngang cổ trong không khí, thực chất là muốn khoe viên kim cương ba mươi cara trên chiếc nhẫn của mình. BobiAnne Llewellyn là người vợ thứ hai, ít tuổi hơn nhiều so với chồng mình, thượng nghị sĩ Forsyth Llewellyn.


Một vài người phụ nữ khẽ rùng mình trước lời gợi ý của BobiAnne dù rằng họ cũng ngầm đồng ý với bạn mình. Chỉ là, cái cách diễn đạt thô thiển của BobiAnne vốn không phải là cách mà các Máu Xanh vẫn làm.Mimi nhận ra bạn cô, Bliss Llewellyn, cũng đang hướng cái nhìn về phía phát ra giọng nói xé tai của bà mẹ kế mình. Bliss là một trong những thành viên mới nhất của Ủy Ban. Mặt Bliss lúc này đang từ từ chuyển sang màu gần giống với màu tóc đỏ rực của cô khi nghe thấy tiếng cười khùng khục phát ra từ nơi cổ họng của BobiAnne ở đầu kia căn phòng.


- Vậy là xem ra chúng ta đã có phương án giải quyết cho vấn đề này. – Priscilla ôn tồn nói – Chúng ta sẽ giải thích với Sloane rằng họ không thể ngồi dự tiệc tại vị trí danh dự năm nay, đơn giản vì họ vẫn đang trong thời kỳ để tang con gái và chúng ta muốn tỏ ra tôn trọng điều đó. Chúng ta cũng sẽ để cô gái nhà Van Alen ngồi chung với họ. Như vậy họ sẽ chẳng thể nói được điều gì nữa, bởi dù sao họ cũng từng qua lại thân tình với Cordelia; và cháu gái bà ấy cũng đang chịu cảnh mất người thân như họ.Nhắc tới Schuyler mới nhớ, con nhãi ranh không biết biến đi đằng nào rồi? Chuyện đó không thực sự khiến Mimi quan tâm, nhưng việc Schuyler không thèm xuất hiện tại buổi họp mặt ngày hôm nay làm cô khó chịu. Cô nghe ai đó nói rằng Schuyler và tên Conduit Máu Đỏ của cô ta, Oliver, đã đi Venice. Trong bao nhiêu nơi, tại sao lại là Venice chứ? Bọn chúng đang làm cái chết tiệt gì ở đó vậy? Mimi chun mũi. Nếu đã tới Ý thì không phải các thành phố thương mại lớn như Rome hay Milan sẽ là sự lựa chọn tốt hơn sao? Trong suy nghĩ của Mimi, Venice lúc nào cũng ẩm ướt và nhớp nháp. Mà quan trọng là, làm sao bọn chúng có được sự cho phép của nhà trường vậy?


Trường Duchesne không cảm thấy thoải mái với các kì nghỉ cá nhân tự do của học sinh. Thậm chí ngay cả nhà Force cũng đã nhận được lời khiển trách khi đưa hai đứa con sinh đôi của mình đi nghỉ tại một khu trượt tuyết vào tháng Hai năm ngoái. Theo lịch của nhà trường, “tuần lễ trượt tuyết” chính thức là vào tháng Ba, và các gia đình tốt nhất là nên tuân theo sự sắp đặt đó. Nhưng ai mà thèm quan tâm chứ? Đối với gia đình nhà Charles Force, cái thứ “bột xốp” trên núi Aspen vào tháng Ba làm sao có thể sánh ngang tầm với mùa tuyết tháng Hai được. Mimi ném một bông hồng lụa ngang qua bàn về phía anh trai mình. Jack lúc này đang tham gia một cuộc thảo luận sôi nổi với các thành viên khác trong tiểu ban của cậu về vấn đề an ninh tại vũ hội. Bản thiết kế phòng khiêu vũ của khách sạn St. Regis đang trải rộng trước mặt họ.


Bông hồng rơi trúng đùi Jack khiến cậu ngạc nhiên ngước lên. Mimi nhe răng cười với cậu.Mặt Jack hơi ửng hồng, nhưng cậu cũng đáp lại cô bằng một nụ cười chết người của riêng mình. Những tia nắng mặt trời chiếu rọi qua các khung cửa sổ làm bằng kính màu càng khiến cho khuân mặt điển trai của Jack rạng ngời một sắc vàng chói lóa.


Mimi chợt nghĩ cô sẽ chẳng bao giờ cảm thấy chán việc ngắm nhìn Jack. Cảm giác ấy tuyệt vời gần như ngắm nhìn chính mình trong gương vậy. Cô mừng là sau khi sự thật về dòng dõi của Schuyler, thực chất là một Máu Lai, một Quái thai, bị lộ ra, mọi chuyện giữa hai người họ lại quay trở về như bình thường. Mà có gì thực sự gọi là bình thường xunh quanh cặp sinh đôi nhà Force chứ?!“Này anh chàng đẹp trai” – Mimi ngầm phát tín hiệu.


“Gì vậy?” – Jack cũng đáp lại mà không cần mở miệng.“Chỉ là đang nghĩ về anh thôi.”


Nụ cười của Jack rạng rỡ hơn khi cậu ném trả bông hồng về phía em gái, bông hồng lại rơi xuống trúng đùi Mimi. Mimi giắt bông hồng ra phía sau tai, chớp chớp lông mi ra chiều cảm kích.



Cô kiểm tra lại các thiệp RSVP một lần nữa. Vì buổi vũ hội này là một sự kiện của toàn cộng đồng ma cà rồng nên ban điều hành chủ yếu là các bậc Trưởng bối và các Giám hộ, tựu chung là toàn người lớn tuổi. Mimi mím chặt môi. Chắc chắn rồi, đây sẽ là một bữa tiệc thú vị, một sự kiện hoành tráng nhất kể từ trước đến nay, nhưng cô bỗng nảy ra một ý nghĩ. Một buổi tiệc phụ ngay sau đó nghe thế nào nhỉ?


Một bữa tiệc chỉ có các ma cà rồng trẻ. Đó sẽ là nơi mang lại cho họ cảm giác thoải mái mà không phải giữ kẽ vì lo ngại ánh mắt phán xét từ phía các bậc phụ huynh, các Giám hộ, và ban lãnh đạo Ủy Ban.



Một thứ gì đó phá cách và phiêu lưu… một thứ mà chỉ có những người xuất sắc nhất mới có quyền tham dự. Một nụ cười lạnh lùng sáng lên trên môi Mimi khi cô tưởng tượng ra cảnh những bạn bè cùng học tại Duchesne cầu xin cô mời họ tham dự bữa tiệc. Trong vô vọng, Mimi nghĩ. Bởi vì sẽ chẳng có giấy mời nào hết. Chỉ có những mẩu tin nhắn được gửi tới khách mời vào đêm diễn ra vũ hội Four Hundred, kèm theo đó là tên địa điểm tổ chức buổi tiệc phụ. Một đêm hai vũ hội, chỉ dành cho ma cà rồng.


Mimi liếc nhìn Jack, lúc này đang cầm một tờ giấy trước mặt, làm che mất khuôn mặt đẹp trai của cậu. Mimi bỗng nhớ lại một cảnh trong quá khứ: hai người họ cúi chào nhau tại Cung điện Versailles, khuôn mặt họ ẩn sau những chiếc mặt nạ trang trí bằng hạt cườm và lông vũ. Hiển nhiên rồi! Một vũ hội hóa trang.



Buổi tiệc phụ sẽ là màn trình diễn của những chiếc mặt nạ.



Không ai biết chắc ai là ai cũng như có những ai được mời và ai không được mời, tự nhiên sẽ gây ra một nỗi lo sợ tập thể cực kỳ tinh tế. Mimi cảm thấy tràn ngập vui thích trước ý tưởng này. Cô luôn luôn qua mặt người khác trong việc kiếm tìm niềm vui thú, bởi Mimi lúc nào cũng sẵn sàng cho các cuộc vui.


---------------------------------
(1): Addis Ababa: Thủ đô của Ethiopia, một quốc gia thuộc khu vực Đông Phi.
(2):  Bác sĩ Zhivago: cuốn tiểu thuyết nổi tiếng xuất bản năm 1957 của tác giả người Nga Boris Pasternak.

(3): thiệp RSVP: Viết tắt của cụm từ tiếng Pháp “répondez, s’il vous plait”, có nghĩa là “Xin hãy hồi âm”. Khi khách mời nhận được thiệp này sẽ phải gửi lại hồi âm báo cho chủ tiệc biết mình có tham gia hay không để chủ tiệc ghi lại vào danh sách.






Friday, June 11, 2010

Vũ hội hóa trang - Chương 1

“Chúng ta đã quá quen với việc che đậy mình trước người khác, để rồi cuối cùng chúng ta che đậy bản thân với ngay cả chính chúng ta.”




- Francois Duc de la Rochefoucauld.

 
“…Tôi của lúc này đã biến đổi thành một thứ khác
… Cái bóng nơi tôi lại tiếp tục chuyển vai.”


- Trích lời bài “Mặt nạ” của nhóm Bauhaus.


--------------------------------------------------
CHƯƠNG 1


Những con chim bồ câu đang chiếm lấy quảng trường St. Mark. Có tới hàng trăm con, tất cả đều to, lông xám, lặng lẽ đi lại trên quảng trường, và liên tục mổ những mẩu vụn bánh mì sfogliatelle(1) và bánh mì nho kẻ ô vuông mà khách du lịch vô tình để rơi. Lúc này đang là buổi trưa, dù mặt trời đã bị những đám mây che khuất, khiến thành phố như chìm trong một bức màn xám xịt, ảm đạm. Những con thuyền đáy bằng vắng khách xếp hàng dọc bến đậu, còn những người lái thuyền trong trang phục áo kẻ sọc nằm dựa vào mái chèo, chờ những vị khách còn đang ở tận chốn nào. Giờ này nước triều vẫn chưa lên nhưng người ta vẫn có thể nhận ra những vệt tối màu trên vách mặt tiền những tòa nhà ven kênh do bị thấm nước mỗi khi thủy triều dâng cao. Schuyler Van Alen chống khuỷu tay lên chiếc bàn café ọp ẹp, hai tay giữ lấy mặt, khiến chiếc cằm của cô khuất lấp trong chiếc áo cổ lọ ngoại cỡ. Schuyler là một ma cà rồng Máu Xanh, thành viên cuối cùng của nhà Van Alen, một gia tộc từng có thời bá chủ cả New York, nơi mà quyền lực và của cải của họ đã góp phần tạo dựng nên Manhattan ngày nay. Từ lâu lắm rồi, cái tên Van Alen đồng nghĩa với quyền lực, đặc quyền và các quyền bảo trợ. Nhưng đó là chuyện từ thời xa xưa, của cải của gia tộc đã hao mòn dần theo năm tháng đến nỗi mà Schuyler đã trở nên quen với cuộc sống tằn tiện hơn là hưởng thú vui vung tiền mua sắm. Nhìn bộ cánh cô đang mặc lúc này là đủ hiểu: chiếc áo cổ lọ màu đen dài quá hông, chiếc quần bó ống ngắn cũn cỡn, bên ngoài là chiếc áo jacket kiểu lính phòng không, cuối cùng là đôi bốt của dân lái môtô đã cũ sờn, tất cả đều là phế phẩm của một cửa hàng chuyên bán đồ secondhand(2).

Nếu bộ đồ này mà khoác lên người bất cứ cô gái nào khác thì trông chẳng khác nào miếng rẻ rách trên người một kẻ đầu đường xó chợ, nhưng khi mặc trên người Schuyler, nó lại trông như thể y phục của một thành viên hoàng gia. Bộ quần áo càng làm tôn lên dáng người mỏng manh, nhỏ nhắn của cô. Với làn da tai tái trắng ngà, đôi mắt xanh sâu thẳm và mái tóc dày sẫm màu, đen pha xanh, trông Schuyler thực sự nổi bật và đáng yêu đến mức khó tin rằng thế giới này còn tồn tại một vẻ đẹp như thế. Vẻ đẹp đó càng được nhân lên cùng với sự thánh thiện mỗi khi cô mỉm cười, dù rằng ít có cơ hội cho nụ cười ấy xuất hiện vào buổi sáng nay.

- Vui lên nào. – Oliver Hazard-Perry nói trong lúc nâng tách espresso lên gần miệng. – Dù gì thì ít ra chúng ta cũng có một kì nghỉ nho nhỏ. Cậu xem, thành phố này không tuyệt vời sao? Thôi nào, cậu phải thừa nhận chuyện tụi mình đang ở Venice sung sướng hơn cả ngàn lần so với việc bị mắc kẹt trong phòng thí nghiệm môn Hóa chứ.

Oliver luôn là bạn thân nhất của Schuyler kể từ khi hai người còn rất nhỏ. Đó là một anh chàng đẹp trai, cao lênh khênh với mái tóc mềm mượt, nụ cười lém lỉnh và đôi mắt nâu nhạt ấm áp. Cậu là bạn tâm giao, là đồng phạm trong mọi trò tội lỗi và, như Schuyler được biết cách đây không lâu, còn là một Conduit truyền đời của cô, một kiểu trợ lý cho ma cà rồng, một cánh tay mặt hay một kiểu người hầu cấp cao, đại loại vậy. Oliver chính là người đã giúp họ thực hiện chuyến đi từ New York đến Venice này trong một khoảng thời gian cực ngắn. Cậu đã thuyết phục ba mình cho cả hai bám càng trong chuyến công du của ông tới châu Âu.

Mặc kệ những lời động viên của Oliver, Schuyler vẫn cứ rầu rĩ. Hôm nay đã là ngày cuối cùng của họ ở Venice, vậy mà cả hai vẫn chưa tìm được chút manh mối nào. Ngày mai họ sẽ bay về New York, tay trắng như lúc khởi hành. Chuyến đi này đúng là công cốc.


Cô bắt đầu xé nhỏ cái nhãn trên chai Pellegrino của mình một cách cẩn thận, tạo thành những dải mỏng màu xanh. Cô vẫn chưa muốn bỏ cuộc sớm như vậy.


Gần hai tháng trước, bà của Schuyler, Cordelia Van Alen, đã bị một Máu Bạc, kẻ thù truyền kiếp của gia tộc ma cà rồng Máu Xanh, tấn công. Cordelia đã kể cho Schuyler nghe chuyện về Máu Bạc. Cũng giống như Máu Xanh, đó là những thiên thần sa ngã, bị đuổi ra khỏi Thiên Đàng và chịu kiếp sống bất tử trên trái đất. Tuy nhiên, khác với Máu Xanh, ma cà rồng Máu Bạc đặt lòng trung thành của mình nơi Lucifer(3), Hoàng tử Thiên Đàng đang chịu án lưu đày. Bản thân Lucifer đã từ chối tuân theo Luật lệ của gia tộc ma cà rồng, một bộ Luật nghiêm khắc chứa đầy những luân thường đạo lý và cũng là hi vọng của Máu Xanh với ước muốn một ngày nào đó, họ sẽ được trở lại Thiên Đàng. Cordelia từng là giám hộ hợp pháp của Schuyler. Cô chưa từng gặp bố mẹ mình theo đúng nghĩa: bố cô đã chết trước cả khi cô được sinh ra, còn mẹ cô rơi vào trạng thái hôn mê suốt từ lúc cô chào đời đến giờ. Trong phần lớn tuổi thơ của Schuyler, Cordelia luôn tỏ ra xa cách, nhưng bà là gia đình duy nhất của cô trên thế giới này, và dù sao đi nữa, cô thực lòng yêu bà mình.

- Bà tớ đoan chắc ông ấy ở đây. – Schuyler nói trong lúc chán chường ném mẩu vụn bánh mì về phía những con chim bồ câu đang tụ tập dưới chân bàn của họ.
Cô luôn nói câu này kể từ lúc họ đến Venice. Cuộc chiến đấu với tên Máu Bạc đã làm Cordelia kiệt sức, nhưng trước khi bà cô chìm vào trạng thái “ngủ đông” (các ma cà rồng Máu Xanh sẽ tiếp tục hồi sinh trong một chu kì mới), bà đã nhắc đi nhắc lại việc đi tìm người ông mất tích của cô, Lawrence Van Alen, người mà bà tin chắc đang nắm giữ chìa khóa giúp họ tiêu diệt Máu Bạc. Trong hơi thở cuối cùng, Cordelia đã chỉ dẫn Schuyler tới Venice để tìm ông ngoại. Chính vì vậy cô mới lặn lội tới tận đây, lùng sục từng ngõ ngách trong thành phố và dọc cả những con kênh lộng gió, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của người ông mất tích.

- Nhưng chúng ta đã tìm khắp nơi rồi. Chẳng ai biết, thậm chí từng nghe thấy cái tên Lawrence Van Alen hay Tiến sĩ John Carver cả. – Oliver thở dài, nhắc lại cho cô nhớ hàng tá lần họ ghé qua các trường đại học, qua quán bar Harry trên phố Cipriani, hay qua từng khách sạn, villa, nhà trọ trong thành phố.
John Carver là tên mà Lawrence đã mang trong suốt thời gian gia tộc định cư tại Plymouth.

- Tớ biết mà. Tớ còn đang nghĩ có khi ông thậm chí không tồn tại. – Schuyler đáp lại.

- Có thể bà cậu đã nhầm. Bà quá yếu, mất phương hướng và cảm thấy bối rối nên không rõ phải chỉ cậu đi tới đâu. – Oliver gợi ý – Chuyến đi này chẳng khác nào đi săn ngỗng trời vậy.

Schuyler cũng từng nghĩ tới giả thiết này. Có lẽ Cordelia đã nhầm lẫn, và có thể Charles Force, thủ lĩnh hiện thời của gia tộc ma cà rồng, đã đúng về mọi chuyện. Nhưng nỗi đau mất bà đã ảnh hưởng quá nhiều tới Schuyler. Cô vẫn nung nấu quyết tâm thực hiện di nguyện cuối cùng của người bà quá cố.
- Tớ không nghĩ vậy đâu, Ollie. Nếu cứ như cậu nói thì tớ đã bỏ cuộc từ lâu rồi. Nhưng tớ phải tìm bằng được ông ấy. Tớ phải tìm ra ông ngoại. Cứ nghĩ lại những điều Charles Force đã nói, tớ lại cảm thấy bị tổn thương…

- Ông ta nói gì? – Oliver hỏi. Schuyler đã từng đề cập đến cuộc nói chuyện giữa cô và Charles Force trước khi hai người rời New York nhưng không thực sự đi sâu vào chi tiết.

- Ông ta nói… - Schuyler nhắm hai mắt, nhớ lại cuộc đối mặt căng thẳng giữa hai người.




Hôm đó cô tới bệnh viện thăm mẹ. Allegra Van Alen vẫn cứ đẹp và xa cách như bao lần cô tới thăm bà. Kể từ sau khi Schuyler chào đời, mẹ cô vẫn luôn ở trong trạng thái hôn mê như vậy, lơ lửng giữa cái chết và sự sống. Schuyler không còn cảm thấy ngạc nhiên nữa khi bắt gặp vị khách trong phòng bệnh của mẹ cô. Charles Force đang quỳ gối bên cạnh giường mẹ cô nằm, nhưng ngay khi nhìn thấy Schuyler, ông ta nhanh chóng đứng dậy và lau mắt. Bỗng nhiên, cô cảm thấy thương hại người đàn ông này. Chỉ mới tháng trước thôi, cô vẫn tin rằng ông là hóa thân của quỷ dữ, thậm chí đã buộc tội ông chính là Máu Bạc. Một sự nhầm lẫn tai hại.

Bởi Charles Force chính là Michael Trái Tim Thuần Khiết, một trong những tổng lãnh thiên thần đã tự nguyện chịu hình phạt lưu đày khỏi Thiên Đàng để giúp đỡ những người anh em của mình - những thiên thần bị đuổi khỏi Thiên Đàng trong cuộc nổi dậy của Lucifer và chịu hình phạt sống trên trái đất với tư cách là ma cà rồng Máu Xanh. Michael là người duy nhất chọn làm ma cà rồng chứ không phải bị trừng phạt mà biến thành. Mẹ Schuyler, Allegra Van Alen, là ma cà rồng thứ hai cùng chung đặc điểm này. Allegra chính là Gabrielle Thanh Khiết, còn được biết đến với cái tên Gabrielle Đoan Chính. Từ xa xưa, Michael và Gabrielle đã luôn là một đôi. Họ là một cặp sinh đôi bị giới hạn máu với nhau, trong chu kỳ này cả hai được tái sinh trong vai anh trai và em gái.

Mối quan hệ dựa trên giới hạn máu thực chất là một lời thề bất tử giữa các ma cà rồng Máu Xanh, nhưng Gabrielle đã chối bỏ lời thề đó với Michael khi kết hôn với thần linh quen thuộc loài người của mình, chính là ba của Schuyler.

- Cô có biết lý do mẹ cô chìm vào hôn mê không? Nói đúng hơn là lý do khiến cô ấy đã chọn cuộc sống mê man này? – Charles hỏi Schuyler.

- Bà ấy đã thề rằng sẽ không bao giờ chấp nhận bất cứ ai làm thần linh quen thuộc nữa sau khi ba tôi qua đời. Cordelia nói đó là vì mẹ không muốn sống nữa.

- Nhưng cô ấy không chết vì cô ấy là một ma cà rồng bất tử. Cô ấy vẫn sống… - Charles cay đắng tiếp lời - …nếu người ta thực sự coi đây là “sống”.

- Đó là lựa chọn của bà ấy. – Schuyler nói bằng một giọng đều đều. Cô không thích giọng điệu phán xét trong lời nói của Charles.

- Lựa chọn…- Charles nguyền rủa - Một khái niệm lãng mạn làm sao, nhưng chẳng có chút nghĩa lý gì hết. – Ông ta quay về phía Schuyler – Tôi nghe nói cô sắp đi Venice.

Schuyler gật đầu đáp lại:

- Ngày mai chúng tôi bay. Tôi đi để tìm ông ngoại tôi.

Bà cô đã nói rằng con gái của Gabrielle được cho là có khả năng cứu rỗi linh hồn của tất cả bọn họ. Và chỉ có ông cô mới biết cách đánh bại bọn Máu Bạc. Ông sẽ giúp cô.

Cordelia giải thích rằng trong suốt chiều dài lịch sử kể từ khi ma cà rồng tồn tại trên trái đất, Máu Bạc luôn săn lùng Máu Xanh, hút cạn máu và ký ức của họ. Cuộc tấn công cuối cùng mà người ta còn nhớ đến xảy ra ở Plymouth. Khi đó gia tộc ma cà rồng đang trong thời kỳ đầu ổn định cuộc sống tại Tân Thế giới. Bốn trăm năm sau, tại thành phố New York, khi Schuyler vừa mới bắt đầu năm học thứ hai bậc Trung học tại Trường Duschesne ít lâu thì các cuộc tấn công lại tái diễn. Nạn nhân đầu tiên chính là bạn học của cô, Aggie Carondolet. Ngay sau cái chết của Aggie, số người bị tấn công ngày một tăng lên. Điều khiến Schuyler bận tâm nhất chính là những con mồi mà Máu Bạc săn lùng đều là những ma cà rồng trẻ. Giai đoạn từ năm mười lăm tuổi đến năm hai mươi mốt tuổi luôn là quãng thời gian khó khăn đối với Máu Xanh. Đây là thời kỳ mà họ yếu đuối nhất, trước khi thực sự kiểm soát được sức mạnh của mình.

- Lawrence Van Alen đã bị trục xuất khỏi Ủy Ban, ông ta là kẻ bị lưu đày. – Charles Force nói. – Cô sẽ chẳng tìm được gì ở Venice ngoài nỗi thất vọng và chán chường. – Charles lạnh lùng tuyên bố.

- Tôi không quan tâm – Schuyler chỉ biết cúi đầu lặng lẽ. Cô nắm chặt lấy gấu áo len, vặn nó thành những vòng xoắn. – Ông vẫn không chịu thừa nhận rằng Máu Bạc đã quay trở lại. Và chúng đã tấn công rất nhiều người trong chúng ta.

Vụ tấn công mới nhất xảy ra ít ngày sau tang lễ của bà cô. Summer Amory, người vừa mới làm lễ ra mắt giới thượng lưu vào năm ngoái, được người ta tìm thấy, bị hút cạn máu, trong một căn hộ thuộc tòa cao ốc Trump. Phần tàn bạo nhất của bọn Máu Bạc chính là ở chỗ chúng không khiến người ta chết mà đẩy nạn nhân vào số phận thê thảm hơn nhiều so với cái chết. Luật lệ của ma cà rồng công khai nghiêm cấm tất cả các ma cà rồng thực hiện nghi lễ Caerimonia Osculor, còn được gọi là Nụ hôn Thần Thánh trên chính đồng loại của mình. Để thực hiện Caerimonia, các ma cà rồng phải tuân theo những quy định nghiêm ngặt. Luật không cho phép họ hút cạn máu ngay cả đối với một con người.

Nhưng Lucifer và các môn đệ của ông ta đã phát hiện ra rằng nếu thực hiện Nụ hôn trên các ma cà rồng thay vì thực hiện trên con người sẽ làm cho họ mạnh lên gấp nhiều lần. Máu Đỏ chỉ có một kiếp sống duy nhất trong khi Máu Xanh nắm giữ trong dòng máu của mình ký ức của một kiếp sống bất tử. Máu Bạc không chỉ hút cạn máu của ma cà rồng mà còn hút luôn ký ức của họ, khiến họ hoàn toàn biến mất khỏi thế gian này, và tệ hơn nữa, biến họ thành nô lệ của chúng, của sự điên loạn vì chúng đã hấp thu quá nhiều các ký ức. Máu Bạc chính là một hỗn thể các kiếp sống bị giam hãm trong một cái xà lim. Vĩnh viễn. Tàn độc.

Nếp nhăn trên trán Charles Force hằn sâu hơn nữa.

- Máu Bạc đã bị tiêu diệt hoàn toàn rồi. Điều cô vừa nói không thể xảy ra. Phải có một sự giải thích khác cho tất cả chuyện này, và Ủy Ban đang xúc tiến điều tra tìm ra lời giải đó.

- Ủy Ban chẳng làm gì cả! Ủy Ban chẳng xúc tiến cái gì hết! – Schuyler cãi lại.


Cô biết Charles Force vẫn đang cố bám vào cái dấu tích lịch sử khi ông ta đánh bại Lucifer, lúc đó được biết đến với cái tên Caligula – ông Hoàng Máu Bạc điên cuồng, trong trận chiến cuối cùng giữa hai phe tại Rome. Lucifer đã bị Michael tống vào Hỏa ngục bằng chính thanh gươm vàng của mình.

- Tùy cô thôi. – Charles thở dài – Tôi không thể ngăn cô đi Venice được, nhưng tôi xin cảnh báo cho cô biết Lawrence chỉ bằng một nửa người đàn ông mà Cordelia mong ông ta trở thành.

Charles nâng cằm Schuyler lên trong khi cô nhìn ông với ánh mắt đầy thách thức.

Cuối cùng ông nhẹ nhàng nói:

- Hãy cẩn trọng, con gái của Allegra.




Schuyler rùng mình khi nhớ lại sự đụng chạm ấy. Hai tuần vừa qua chẳng được tích sự gì ngoài việc chứng tỏ Charles Force đã đúng. Có lẽ Schuyler sẽ thôi không đặt ra các câu hỏi nữa mà cứ thế quay về New York làm một cô bé ngoan, một ma cà rồng an phận, sẽ không bao giờ nghi ngờ bất cứ hành động nào của Ủy Ban nữa. Lúc đó, có lẽ mối bận tâm duy nhất của cô sẽ là chuyện phải mặc gì trong dạ tiệc Four Hundred sắp tới tại khách sạn St. Regis.

Cô thổi tung làn tóc mái, hướng cái nhìn cầu khẩn qua phía bên kia chiếc bàn, tới nơi người bạn thân nhất của cô. Oliver luôn là một trợ thủ trung thành. Cậu đã ở bên cô trong suốt cuộc hành trình, và cả trong những ngày cô lâm vào cảnh tang gia bối rối.

- Tớ biết là ông ấy ở đây, tớ có thể cảm thấy điều đó. – Schuyler nói. - Tớ ước gì chúng ta không phải rời đi ngay ngày mai.

Cô đặt cái chai lại lên bàn, lúc này trên vỏ chai hoàn toàn trơ trụi, cái nhãn đã bị bóc ra không còn một mẩu.

Người bồi bàn tiến lại phía họ mang theo hóa đơn, Oliver nhanh chóng rút từ trong ví da một chiếc thẻ tín dụng trước khi Schuyler kịp phản đối.

Họ quyết định bắt một chiếc thuyền, làm một tua cuối cùng vòng quanh thành phố cổ này. Oliver giúp Schuyler lên thuyền. Cả hai dựa lưng vào cái nệm nhung cùng một lúc khiến cẳng tay của hai người chạm vào nhau. Schuyler ngay lập tức hơi dịch ra xa, cảm thấy có chút xấu hổ trước sự đụng chạm vừa rồi. Điều này quả thực mới mẻ đối với cô. Trước đây cô luôn thoải mái mỗi khi ở bên Oliver. Hồi nhỏ, họ còn từng cùng nhau ở trần, ngụp lặn trong cái hồ phía sau nhà bà ngoại cô ở Nantucket, rồi cả những buổi tối nằm ngủ bên nhau trong chiếc túi ngủ đôi nữa. Họ thân nhau như anh em ruột thịt. Vậy nhưng gần đây, Schuyler phát hiện ra rằng cô đang phản ứng lại sự có mặt của Oliver với một ý thức về bản thân mới xuất hiện mà chính cô cũng không lý giải được. Cứ như thể một sáng cô thức dậy và phát hiện ra người bạn thân nhất của mình là một cậu con trai, thậm chí rất đẹp trai nữa là khác.

Người lái thuyền đưa con thuyền ra khỏi bến đậu, bắt đầu cuộc du ngoạn trên sông nước. Trong khi Oliver lôi máy ảnh ra chụp, Schuyler cũng cố thưởng thức cảnh đẹp hai bên bờ. Nhưng dù thành phố này đẹp tới nhường nào, trong lòng cô vẫn ồ ạt những cơn sóng của khổ đau và cảm giác trơ trọi. Nếu không tìm được ông ngoại thì cô sẽ phải làm gì tiếp theo đây? Ngoài Oliver ra cô chẳng còn ai thân thích trên thế giới này. Khi chỉ còn một mình đơn thương độc mã, liệu chuyện gì sẽ xảy đến với cô? Tên Máu Bạc đó, nếu hắn đúng là một Máu Bạc, đã tấn công cô hai lần rồi. Cô giữ chặt một tay ở cổ như thể để tự bảo vệ bản thân khỏi những cuộc tấn công trước đây. Ai mà biết được liệu hắn có quay trở lại nữa không? Và nếu vậy thì khi nào? Liệu những cuộc thảm sát có dừng lại như Ủy Ban hi vọng? Hay vẫn tiếp tục xảy ra như cô nghi ngờ, cho tới khi tất cả bọn họ bị tiêu diệt không còn một ai?

Schuyler rùng mình mặc dù thời tiết lúc này không hề lạnh. Ngó sang bờ bên kia, Schuyler bắt gặp bóng dáng một người phụ nữ đi ra từ một tòa nhà.
Người phụ nữ ấy trông rất quen.


Không thể nào, Schuyler thầm nghĩ. Không thể như vậy được. Mẹ cô đang nằm hôn mê trong bệnh viện mãi tận New York cơ mà. Bà không thể nào lại xuất hiện ngay tại Italia này được. Hay là bà có thể? Phải chăng có điều gì đó về Allegra mà Schuyler không biết?

Đột nhiên, như thể nghe thấy suy nghĩ của cô, người phụ nữ quay ra nhìn thẳng vào mắt Schuyler.

Đó chính là mẹ cô. Không thể nhầm được. Người phụ nữ này cũng có mái tóc vàng của Allegra, cả cái mũi quý tộc ấy, cái gò má như hình lưỡi dao ấy. Ngay cả dáng người thanh thoát và đôi mắt xanh lục bảo sáng ngời đều là của mẹ cô.


- Oliver, đó là, ôi Chúa tôi! – Schuyler thốt lên kinh ngạc, giật giật áo khoác cậu bạn. Cô điên cuồng chỉ tay về phía bờ bên kia.

- Hả? – Oliver quay lại.

- Người phụ nữ đó… tớ nghĩ đó là m… mẹ tớ! Đó, kia kìa! – Schuyler vẫn chỉ tay về phía bóng người đang chạy rất nhanh rồi biến mất vào một đám đông lúc này đang túa ra từ Điện Ducal.

- Cậu đang nói về cái quái gì thế hả? – Oliver hỏi lại, mắt cậu dò dẫm dọc lối đi bên kia bờ sông, về phía Schuyler vẫn đang chỉ tay. - Người phụ nữ đó á? Cậu nghiêm túc chứ? Sky, đừng nói cậu bị mất trí nhé? Mẹ cậu đang nằm viện tận bên New York cơ mà. Hơn nữa bà ấy còn bị hôn mê. – Oliver giận dữ nói.

- Tớ biết, tớ biết mà, nhưng… - Schuyler nói. – Nhìn kìa, lại là bà ấy kìa, đúng là mẹ tớ mà, thề có Chúa, đó chính là mẹ tớ.

- Cậu nghĩ xem mình đang ở đâu chứ? – Oliver hỏi vì lúc này Schuyler chồn hết cả hai chân lên rồi. – Có chuyện gì với cậu vậy? Bám chắc vào! Sky, ngồi xuống! – Oliver lẩm bẩm dưới hơi thở - Chuyện này chỉ tổ phí thời gian thôi.
Schuyler quay lại, nhìn cậu chằm chằm.

- Cậu biết là cậu không cần đi cùng tớ mà.

Oliver thở dài.

- Phải rồi. Nói cứ như thể tự cậu sang được Venice này vậy. Cậu thậm chí còn chưa tới Brooklyn(4) bao giờ.

Schuyler thở hắt rồi tiếp tục quay ra, hướng cái nhìn chăm chú về phía người phụ nữ tóc vàng, cô điên cuồng muốn thoát khỏi con thuyền “rùa bò” này. Oliver nói đúng. Schuyler nợ cậu quá nhiều khi cậu chịu sang Venice với cô, và cô luôn cảm thấy khó chịu bởi cảm giác phải dựa dẫm vào cậu. Đó cũng là điều cô đang nói cho Oliver hay.

- Cậu dựa dẫm vào tớ là chuyện đương nhiên mà. – Oliver kiên nhẫn giảng giải. – Tớ là Conduit của cậu. Nhiệm vụ của tớ là giúp cậu quản lý những chuyện trong cuộc sống dưới lốt người của cậu. Tớ chỉ không ngờ điều đó cũng đồng nghĩa với việc phải trở thành đại lý du lịch của cậu, nhưng mà vậy thì sao chứ?!

- Vậy thì giúp tớ đi. – Schuyler hét lên. – Tớ cần phải đi… - Giọng cô rít lên điên cuồng.


Lúc này Schuyler đã sẵn sàng. Cô nhảy khỏi thuyền lên lối đi bộ dọc con kênh bằng một bước nhảy thần diệu mà con người không bao giờ đủ khả năng thực hiện, đơn giản vì khoảng cách giữa chỗ cô đứng và chỗ marciapiede (vỉa hè – nguyên văn tiếng Ý) gần nhất cũng phải tới hơn chín mét.

- Chờ đã! Schuyler! – Oliver hét lên, loạng choạng đứng dậy. - Andiamo! Segua quella ragazza! (Nguyên văn tiếng Ý – “Nhanh lên! Đuổi theo cô gái đó!) - Cậu giục người lái thuyền bám theo Schuyler, nhưng không dám chắc con thuyền chèo tay này có phải là phương tiện tốt nhất để đuổi theo một ma cà rồng siêu tốc độ không.

Schuyler cảm thấy tầm nhìn trở nên rõ hơn, các giác quan cũng nhạy bén hơn. Cô biết mình đang di chuyển với tốc độ cực nhanh, nhanh tới mức mà cô cảm giác như mọi người xung quanh đứng yên tại chỗ. Nhưng người phụ nữ kia cũng di chuyển nhanh không kém, nếu không muốn nói là còn nhanh hơn. Bà ta gần như bay ngang dọc các con kênh nhỏ chằng chịt khắp thành phố, khéo léo né tránh những chiếc thuyền máy rồi bay sang phía bờ bên kia của con sông chính. Nhưng Schuyler không vì thế mà giảm tốc độ, cả hai người họ lúc này chỉ còn là những cái bóng mờ ảo chuyển động chớp nhá ngang dọc đường phố. Schuyler nhận ra cuộc vượt đuổi này làm cô thích thú, như thể cô đang xoải những cơ bắp mà cô thậm chí còn không biết đến sự tồn tại của chúng.

- Mẹ ơi! - Cuối cùng, khi nhìn thấy người phụ nữ nhảy một bước ngoạn mục từ một ban công xuống một lối vào bí mật, Schuyler cảm thấy tuyệt vọng và gọi to thành tiếng.

Nhưng người phụ nữ không hề quay lại, bà ta nhanh chóng biến mất sau cánh cổng của một tòa cung điện gần đó.

Schuyler nhảy xuống chỗ đó, thở dốc, cố bám theo người phụ nữ vào bên trong với ước muốn cháy bỏng khám phá nhân dạng thực sự của người lạ mặt bí ẩn kia.


---------------
(1): Sfogliatelle: một loại bánh mỳ Ý, có vỏ ngoài như những chiếc lá chồng lên nhau.
(2): Đồ secondhand: đồ cũ đã dùng rồi.
(3): Lucifer: tên gọi của Satan trong Thiên Chúa giáo.
(4): Brooklyn: một khu nằm ngay trong thành phố New York, nơi có cây cầu Brooklyn nổi tiếng.